Kinh tế - Giáo dụcNghề nghiệp việc làm

Tạo ra “giá đỡ” cho người lao động

Tạp Chí Giáo Dục

Bà Nguyễn Thu Hương, viện trưởng Viện Khoa học lao động – xã hội (Bộ LĐ-TB&XH)

Thất nghiệp đang là vấn đề toàn cầu. VN chưa phải là nước công nghiệp hoàn toàn nên tác động có thể không trầm trọng như các nước, nhưng có thể nói hơn bao giờ hết bài toán thất nghiệp đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách đối với chúng ta.
 
Suy giảm kinh tế đang khiến tình trạng thất nghiệp lan rộng. Đề cập vấn đề này, bà Nguyễn Thu Hương, viện trưởng Viện Khoa học lao động – xã hội (Bộ LĐ-TB&XH), nói :
 
– Thất nghiệp đang là vấn đề toàn cầu. VN chưa phải là nước công nghiệp hoàn toàn nên tác động có thể không trầm trọng như các nước, nhưng có thể nói hơn bao giờ hết bài toán thất nghiệp đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách đối với chúng ta.
 
Mặt khác, do VN đang là nước nông nghiệp nên thất nghiệp theo đúng nghĩa cũng được giảm nhẹ, bởi vì những công nhân mất việc hôm nay có thể về nhà tìm được việc làm trên đồng ruộng. Lâu nay, số người thất nghiệp ở VN xấp xỉ 1 triệu người (cuối năm 2007 tỉ lệ thất nghiệp là 4,4%, năm 2008 khoảng 4,8%). Theo tôi, thời gian thật sự khó khăn nhất sẽ là quý 1-2009, theo đó tỉ lệ thất nghiệp trong năm sẽ tăng trên 5%.
 
* Có số liệu dự báo trong năm 2009 có khoảng 150.000 lao động bị mất việc làm, bà nghĩ sao?
 
– Đây có thể là số liệu hơi lạc quan. Bởi vì chỉ tính riêng mấy tháng cuối năm 2008 đã có hàng chục nghìn lao động mất việc. Theo tôi được biết, đã có ý kiến nêu rằng số người thất nghiệp trong năm 2009 có thể lên tới 3 triệu người. Nếu giả định tỉ lệ thất nghiệp là trên 5%, với lực lượng lao động khoảng 48 triệu người hiện nay thì sẽ có khoảng 2 triệu người mất việc. Tất nhiên tôi nhấn mạnh rằng đó là những số liệu ước đoán. Hiện chúng tôi đang nghiên cứu về vấn đề này và sẽ công bố số liệu chính thức trong thời gian tới.
 
* Đâu là những nhóm lao động bị tác động mạnh nhất trong khó khăn kinh tế hiện nay?
 
– Thứ nhất, đó là nhóm lao động di cư. Khi doanh nghiệp đóng cửa thì nhóm này thường bị sa thải đầu tiên. Người ta đã phát hiện ra dòng di cư ngược, lao động từ các khu công nghiệp, thành phố di cư ngược trở lại nông thôn. Thứ hai, lao động không có trình độ, tay nghề thấp. Thứ ba, nhóm lao động ký hợp đồng tạm thời, làm việc theo thời vụ. Cần lưu ý, hơn 50% doanh nghiệp trong ngành xuất khẩu là những cơ sở sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày. Theo tính toán, cứ tăng xuất khẩu 1% thì việc làm trong ngành xuất khẩu tăng 0,4%. Nhưng nếu như tăng trưởng xuất khẩu năm 2008 gần 30% thì dự kiến năm 2009 chỉ 13%, thậm chí nhiều ý kiến còn cho rằng sẽ thấp hơn.
 
* Bà nói rằng những lao động mất việc hiện nay có thể tìm được việc làm trên đồng ruộng…
 
– Khi những lao động bị mất việc quay trở lại hậu phương lớn nông thôn, hôm qua họ là công nhân và hôm nay trở lại nông dân, thì đó không phải là một sự tái cơ cấu lành mạnh. Thông thường ngành dịch vụ là nơi giải quyết lao động khá hiệu quả, như vậy hướng giải quyết lành mạnh hiện nay là chuyển lao động nông nghiệp và công nghiệp sang lao động dịch vụ.
 
Đối với những lao động bị dôi dư, sự tái cơ cấu lành mạnh chỉ đến khi tiền hỗ trợ thất nghiệp cũng như chính sách của Nhà nước đủ cho họ có cơ hội tìm được nghề mới. Chúng ta biết rằng Quốc hội đã đề ra chỉ tiêu năm 2009 là tạo việc làm cho khoảng 1,7 triệu lao động. Câu hỏi đặt ra là khó khăn kinh tế như vậy làm sao thực hiện chỉ tiêu này? Ở đây đòi hỏi gói kích cầu của Chính phủ phải được đặt đúng chỗ.
 
* Theo bà, đâu là những giải pháp căn cơ cho thị trường lao động?
 
– Phải tập trung phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng đào tạo cũng như tính linh hoạt của thị trường lao động. Chúng tôi đang nghiên cứu đề xuất việc sửa đổi, hoàn thiện Bộ luật lao động theo hướng này. Cùng với đó là những chính sách an sinh xã hội để tạo ra “giá đỡ” cho người lao động, vì khi thị trường linh hoạt hơn thì người lao động sẽ phải chuyển việc nhiều hơn.
 
* Bên cạnh những doanh nghiệp sa thải công nhân, theo dõi trên các phương tiện truyền thông vẫn có rất nhiều thông báo tuyển nhân lực, nhất là những người có trình độ cao?
 
– Tôi cho rằng khu vực lao động trình độ cao lâu nay luôn thiếu thì sẽ còn thiếu trong tương lai, mặc dù thị trường này vẫn có thể phải chịu tác động nhất định trong ngắn hạn.
 
Thật ra, khó khăn của kinh tế thị trường luôn có chu kỳ. Về mặt lý thuyết kinh tế thì sau khủng hoảng sẽ tạo ra một trật tự mới, đây là thời gian quan trọng hơn bao giờ hết để chúng ta tập trung đào tạo và đào tạo lại người lao động nhằm đảm bảo không bị hụt hẫng về lao động khi nền kinh tế hồi phục.
Theo Võ Văn Thành – Tuấn Phùng/Tuổi Trẻ
 

Bình luận (0)