Bệnh tăng huyết áp có triệu chứng rất nghèo nàn và rất phức tạp, tùy thể trạng của từng người mà có các dấu hiệu bệnh lý khác nhau.
Bệnh tăng huyết áp có thể là nguyên nhân của các bệnh lý ở động mạch vành, tim, xơ cứng động mạch thận… Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp những biểu hiện của bệnh tăng huyết áp không được rõ ràng cho nên làm lu mờ, tạo cảm giác chủ quan cho người bệnh. Đã có những quan niệm hết sức sai lầm về căn bệnh tăng huyết áp như:
Người cao tuổi là phải tăng huyết áp
Huyết áp sẽ tăng tỉ lệ thuận với độ tuổi, đặc biệt là vào giai đoạn lão hóa, huyết áp tối đa tăng rõ rệt nhất. Tuy nhiên, đây cũng không phải là một hiện tượng bình thường mà rất có hại cho sức khỏe. Người có huyết áp tối đa cao có nguy cơ gặp phải các tai biến nguy hiểm cao hơn so với người có huyết áp tối đa bình thường, nếu có biện pháp điều trị tốt sẽ giúp phòng ngừa được các bệnh về tim và mạch máu não đối với họ.
Tăng huyết áp là do căng thẳng thần kinh
Có không ít người cao tuổi cho rằng thuật ngữ y học “tăng huyết áp” là dùng để chỉ những người bị kích thích về tinh thần và bị căng thẳng về thần kinh. Do đó, người mắc bệnh tăng huyết áp chỉ uống thuốc khi bản thân họ cảm thấy khó chịu, căng thẳng về tinh thần. Kiểu uống thuốc này thật hết sức nguy hiểm. Vì bệnh tăng huyết áp đâu chỉ do nguyên nhân đơn giản là sự căng thẳng quá mức về tinh thần mà đã có rất nhiều người sống trong điều kiện thoải mái, nhẹ nhàng nhưng vẫn bị tăng huyết áp. Thuật ngữ “tăng” ở đây có nghĩa là quá mức, còn “áp” chỉ là áp lực của dòng máu tác động lên trên thành mạch. Nếu áp lực máu tăng cao mà không có biện pháp can thiệp để hạ thấp thì sẽ nguy hiểm cho mạch máu, nhất là mạch máu não
Người có bệnh tăng huyết áp cần phải chăm sóc, tập luyện giữ gìn sức khỏe thường xuyên.
Đánh giá bệnh bằng cảm giác của mình
Triệu chứng của bệnh tăng huyết áp và mức độ nặng nhẹ của bệnh thường không đi đôi với nhau. Có thể triệu chứng của bệnh hết sức rõ ràng nhưng huyết áp lại không cao, ngược lại có những người huyết áp rất cao nhưng triệu chứng lâm sàng thì chẳng rõ ràng gì cả. Do không nhận biết được chính xác các triệu chứng của bệnh nên họ sẽ không uống thuốc, dẫn tới các chứng bệnh khác nhau cùng phát sinh như tim phì đại, nhồi máu cơ tim… Còn với người tăng huyết áp mà triệu chứng lâm sàng không có cũng cần tiến hành điều trị giảm huyết áp một cách tích cực, điều này phụ thuộc vào tuổi tác, chỉ số huyết áp, tình trạng bị tổn thương của các phủ tạng như tim, não, thận và các nhân tố gây nguy hiểm khác.
Tự chọn biện pháp điều trị
Có không ít người khi bác sĩ khuyên ngoài việc uống thuốc hạ huyết áp hằng ngày, họ cần phải thay đổi chế độ ăn uống, sinh hoạt như giảm béo, năng tập thể dục thể thao, chế độ ăn giảm muối thì người bệnh lại chọn lấy một trong những cách trên để thay thế cho việc uống thuốc. Trên thực tế, những phương pháp điều trị không uống thuốc chỉ là các phương pháp bổ trợ chứ không thể thay thế được việc điều trị bằng thuốc, cách làm như trên hoàn toàn sai lầm và rất nguy hiểm.
Tự ý ngưng thuốc khi cho rằng bệnh đã khỏe
Rất nhiều người bị bệnh tăng huyết áp, sau khi uống thuốc một thời gian đã làm cho huyết áp trở lại mức bình thường, thế là họ tự cho phép mình ngừng uống thuốc, vì họ cho rằng mình đã hoàn toàn khỏe mạnh trở lại, không cần đến thuốc nữa. Trên thực tế, số lượng người mắc bệnh tăng huyết áp mà điều trị khỏi rất hiếm, vì tăng huyết áp là một loại bệnh đặc biệt, cần phải cảnh giác, liên tục kiểm tra, điều chỉnh nhằm phòng, chống những biến chứng do nó gây ra.
Những người chưa, sẽ và đã mắc bệnh tăng huyết áp hãy luôn cảnh giác, thường xuyên kiểm tra sức khỏe, duy trì mức độ huyết áp bình thường là tốt nhất. Tuy nhiên, không phải người có huyết áp 150 mmHg thì sẽ an toàn hơn người có huyết áp 200 mmHg. Sự an toàn tính mạng chủ yếu là do ý thức bảo vệ sức khỏe. Người huyết áp cao 200 mmHg mà biết cách chú ý giữ gìn, uống thuốc theo đúng chỉ định của bác sĩ, sống điều độ thì sẽ giúp huyết áp ổn định lại. Ngược lại, người huyết áp vốn chỉ ở mức 150 mmHg mà không chịu giữ gìn, ăn uống vô tội vạ, không tập luyện thường xuyên thì rất dễ tiến triển thành bệnh nặng.
BS HỒ VĂN CƯNG
(PLO)
Bình luận (0)