Trong 6 tỉnh vùng Đông Nam Bộ, xếp về cơ cấu trình độ chuyên môn kỹ thuật của dân số thì TP.Hồ Chí Minh đứng đầu với khoảng 9,8% dân số có trình độ từ đại học trở lên, tiếp đó là Bà Rịa – Vũng Tàu với 4,8%, Đồng Nai 3,5%, Bình Dương 2,7%, tỷ lệ này thấp nhất ở hai tỉnh Tây Ninh và Bình Phước với 2,1%. Tỷ lệ lao động có học vấn cao còn quá khiêm tốn so với nhu cầu phát triển và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam này.

Nguồn nhân lực chất lượng cao là yêu cầu bức thiết của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Ảnh: Thiên Bình
Dồi dào nguồn lao động, khan hiếm nhân lực chất lượng cao
Vùng Đông Nam Bộ có hơn 10,9 triệu dân trên 15 tuổi, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động của vùng Đông Nam Bộ cao và được xếp vào tỷ lệ "dân số vàng”. Tỷ lệ dân số có trình độ đại học trở lên của cả vùng là 6,6%, tỷ lệ dân số có trình độ sơ cấp, trung cấp, cao đẳng cũng chỉ chiếm vài phần trăm và hầu hết dân số không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, nhất là ở tỉnh Tây Ninh chiếm 92,7% dân số. Vì vậy tuy có tiềm năng về nguồn lao động dồi dào nhưng nguồn nhân lực chất lượng cao bao giờ cũng là vấn đề cấp thiết. Lực lượng lao động trên địa bàn chưa đáp ứng được cầu lao động tại địa phương nhất là ở tứ giác công nghiệp TP.Hồ Chí Minh – Đồng Nai- Bà Rịa Vũng Tàu- Bình Dương, nên đã thu hút một lượng lớn lao động từ các tỉnh thành khác đến làm việc, tập trung nhiều tại các khu công nghiệp. Tại các khu công nghiệp Bình Dương lao động ngoại tỉnh chiếm đến 90% lực lượng lao động, trong đó lao động có chứng chỉ nghề chỉ khoảng 56%.
Ngoài các trường, trung tâm ở các tỉnh thành trong vùng, TP.Hồ Chí Minh hiện là trung tâm đào tạo nguồn nhân lực lớn cho cả khu vực, mỗi năm có khoảng 100.000 sinh viên đại học, cao đẳng và khoảng 50.000 học sinh trung cấp tốt nghiệp từ các cơ sở đào tạo tại TP.Hồ Chí Minh. Nhưng trong số lao động đã qua đào tạo chỉ có khoảng 30% đáp ứng nhu cầu của các nhà tuyển dụng. Thực tế cho thấy nhiều chương trình dạy vẫn nặng về lý thuyết, thiên về việc dạy những gì trường có mà chưa chú trọng đào tạo những gì xã hội cần. Vẫn còn nhiều bất cập, khi có trên 50% sinh viên ra trường không có việc làm hoặc có việc nhưng không đúng ngành được học và việc các doanh nghiệp lại phải mất thời gian đào tạo lại trở nên phổ biến. Đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, kết quả thống kê của Viện Chiến lược công nghệ thông tin khi phỏng vấn sinh viên mới ra trường thì 72% không có kinh nghiệm thực hành, 42% không có kỹ năng làm việc nhóm, 70% không thành thạo ngoại ngữ và 77,2% doanh nghiệp phải đào tạo lại các nhân viên mới trong thời gian ít nhất là 3 tháng.
Đột phá trong giáo dục – chìa khóa mở nút nghẽn
Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực có học vấn, có trình độ chuyên môn cao và có khả năng thích ứng nhanh với những tiến bộ của công nghệ, tiếp thu và làm chủ công nghệ mới và có nhiều sáng chế, sáng tạo trong sản xuất. Là vùng kinh tế có tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thuộc hàng cao nhất nước, do vậy nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao của vùng Đông Nam Bộ gia tăng nhanh chóng. Dự báo đến năm 2015, riêng địa bàn TP.Hồ Chí Minh lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật trở lên sẽ tăng từ 49% như hiện nay lên 67%, trong khi lao động phổ thông sẽ giảm từ 38% xuống còn 17%. Vì vậy việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao được xem là yếu tố mang tính quyết định cho sự thành công của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng.
Giáo dục – đào tạo được xác định có vai trò thực hiện khâu đột phá vào điểm nghẽn của chất lượng nguồn nhân lực và chìa khóa vạn năng để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chính vì vậy chấn hưng nền giáo dục là yêu cầu cấp bách. Để làm được việc này, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Vinh- Trường ĐH Kinh tế TP.Hồ Chí Minh cho rằng, cần thực hiện 5 vấn đề trọng tâm: việc giảng dạy phải gắn liền với thực tiễn; vận dụng giáo trình, tài liệu học tập từ nước ngoài cần tiệm cận với điều kiện Việt Nam; tăng cường khả năng tự học và nghiên cứu của học viên, sử dụng hiệu quả các phương tiện hỗ trợ giảng dạy và tích cực lắng nghe ý kiến phản hồi của học viên bởi kết qủa phản biện trung thực của học viên là thước đo chất lượng đào tạo. Nhưng chỉ nâng cao chất lượng đào tạo vẫn chưa đủ, căn cứ vào quy mô đào tạo của các trường đại học và dự báo cân đối nguồn lao động vùng Đông Nam Bộ có thể thấy tình trạng "dư thừa” lượng sinh viên tốt nghiệp của một số ngành với cầu nhân lực, nhất là trong lĩnh vực dịch vụ (cầu chỉ khoảng 17% so với cung). Điều này cho thấy sự gắn kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp gần như chưa có. Ông Trần Đình Lý- GĐ Trung tâm hỗ trợ Sinh viên và Quan hệ doanh nghiệp- ĐH Nông lâm TP. Hồ Chí Minh cho rằng bên cạnh việc phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và doanh nghiệp, cần tăng cường công tác dự báo nhu cầu lao động. Các cơ quan chức năng cần tăng cường thực hiện các cuộc khảo sát điều tra, dự báo xu hướng biến động và nhu cầu của từng lĩnh vực ngành nghề và công bố rộng rãi để góp phần khắc phục tình trạng thừa mà thiếu này.
Phân tích của Tiến sĩ Lê Thị Thanh Mai- Trường ĐH Quốc gia TP.Hồ Chí Minh cho thấy từ quy mô đào tạo năm 2010 của khu vực Đông Nam Bộ thì TP.Hồ Chí Minh chính là nơi cung ứng 100% nguồn nhân lực nhóm ngành nông, lâm nghiệp, thủy sản, khoa học tự nhiên, y dược cho vùng Đông Nam Bộ. Vì vậy trong tương lai TP.Hồ Chí Minh vẫn là trung tâm đào tạo cung ứng nguồn nhân lực đã qua đào tạo cho cả vùng. Ngoài nguồn lao động chất lượng cao từ các cơ sở đào tạo có uy tín trong nước, nguồn nhân lực chất lượng cao còn từ lực lượng du học sinh tốt nghiệp ở nước ngoài về, từ các doanh nghiệp, cơ quan nhà nước và chuyên gia nước ngoài. Do vậy, việc chiêu hiền đãi sĩ để thu hút nguồn nhân lực từ các lực lượng này sẽ góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của vùng Đông Nam Bộ.
Theo BẢO HẠNH
(daidoanket)

Bình luận (0)