Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Nguyễn Văn Thương – Chuyện bây giờ mới kể: Kỳ cuối: Niềm vui ngày trở về

Tạp Chí Giáo Dục

Ông Thương và vợ (ảnh nhân vật cung cấp)

Câu chuyện tình mộc mạc nhưng không kém lãng mạn, nghị lực và khát vọng sống mãnh liệt của một người bị cưa hai chân khép lại loạt bài này như một lời nhắn nhủ: Hãy sống không đầu hàng và không chối bỏ số phận.
Ông Thương hồi tưởng: “Mất cả hai chân, tôi chẳng còn một điểm tựa nào cả, đứng lên là cứ ngã nhào. Cả tháng trời tôi chỉ tập một bước mà cũng chưa quen. Hai chân tì dưới đất, phần xương đùi chịu cả trọng lượng cơ thể gây đau và thốn cả tim gan”.
Một mình tự tập đi
Nguyễn Văn Thương tập đi một mình, bất kể giờ giấc. Có hôm đến gần sáng, mọi người phát hiện cái thân hình tròn vo nằm bất động dưới sàn. Sau mỗi lần tập, người ông ê ẩm, hai đùi bấy nhầy. Đêm ông thức trắng. Ông thấy hình bóng mẹ đang ở quanh đây. Mẹ luôn ở cạnh, dõi theo từng bước chân của mình. Ông thầm nhủ: “Con sẽ cố gắng tập đi. Con phải đi được bằng chính nghị lực của con, mẹ nhé”. Giữa cái rét run người của miền Bắc, ông nhớ các em, nhớ đồng đội. Nhớ đứa con trai chào đời đã lâu nhưng cha con ít bận gần nhau. Nhớ người vợ hiền ngày đêm mong ngóng tin chồng… Và câu nói của một bác sĩ trực tiếp chăm sóc và tập luyện từng bước đi cho mình: “Có thể ông không quan tâm đến mọi thứ nhưng tôi nghĩ rằng ông cần một đôi chân vạn dặm để tiếp tục lên đường chiến đấu”. Lời động viên ấy có giá trị biết bao, tất cả cho ông thấy rằng cuộc đời này đẹp lắm. Thời gian tập luyện, ông Thương ở cùng phòng với hai đồng chí khác nhưng thể trạng đỡ hơn nhiều. Nửa đêm, khi mọi người đi ngủ ông lại lục đục tập đi. Chỉ việc mang đôi chân giả di chuyển từ giường bệnh xuống đã khiến ông mệt nhừ, thở hổn hển. Ông dồn hết sức lực để nhấc người lên, sửa lại tư thế cho vài phân xương đùi còn lại được “nghỉ ngơi”. Có lần, hai đồng chí cùng phòng đang ngủ giật bắn người vì ông không giữ được thăng bằng, khiến người một nơi, chân giả một ngả. Còn chiếc trái thì văng cao rồi “nện” lên mình một đồng chí. Sáng ra, kể lại chuyện chiếc chân giả “phiêu du” làm ai nấy ôm bụng cười nghiêng ngả.  
Có hộ lý phục vụ nhưng ông Thương một mực từ chối. Ông suy nghĩ: “Chiến tranh hy sinh, mất mát là chuyện bình thường. Vấn đề là mình đừng để ai phải khổ thêm nữa”. Sau này cũng vậy, tôi được tiếp xúc nhiều với ông qua các hoạt động Đoàn, những buổi nói chuyện với đoàn viên thanh niên, ai mời ông ăn sáng hay uống ly nước ông đều từ chối. Ông sợ phải làm phiền người khác khi việc đi đứng của mình khó khăn.
“Có thương tui thì nói một tiếng”
Miền Nam giải phóng, ông Thương vào Nam. Ngày ông trở về, việc đầu tiên là ông đến trường tiểu học để đón đứa con trai đầu lòng Nguyễn Tham Liêm. Cậu bé Liêm vui sướng chạy khắp trường báo tin với chúng bạn. Từ trước giờ nó mang tiếng là con không cha, Liêm tủi lắm. 
Ngược thời gian để trở lại thời trai trẻ của Nguyễn Văn Thương. Gương mặt điển trai, ăn nói dù có cục mịch, nhút nhát (trước phụ nữ) nhưng đi đến đâu các chị, các cô chết mê chết mệt. Không nhớ rõ có bao nhiêu cô ở các ấp chiến lược si tình, thầm yêu trộm nhớ. Cũng đã đến tuổi lập gia đình, các đồng chí cấp trên khuyên Thương nên xây dựng “hậu phương”. Khổ nỗi vợ ở đâu mà lấy bây giờ, mọi người cứ ca cẩm tối ngày khiến ông phải thoắt ẩn thoắt hiện để tránh né. Ông Thương cười, thú thật: “Mình có tiếng chứ hổng có miếng”. Những lần ra vào ấp chiến lược, ông thường ghé vào một nhà dân ở xã Phú Hòa Đông (Củ Chi) xin nước uống. Cũng như bao lần khác, uống nước xong là lên đường đi ngay, chẳng để ý gì xung quanh. Lần này, ông thấy các cô gái đang ngồi tráng bánh bên hàng hiên nói qua lại gì đó rồi cùng nhìn ông cười khúc khích. Bẵng đi một thời gian, ông không đi qua đây nữa vì bọn mật thám theo dõi, ông cảm thấy nhớ, một nỗi nhớ không tên. Tình hình khá yên ắng, ông trở lại thì được cô con gái của chủ nhà mang khoai, sắn ra mời. Ông đưa mắt nhìn, cô gái bẽn lẽn trốn ra nhà sau. Một hôm, ông ghé vào lại được mẹ cô gái mời ở lại dùng cơm. Bà sai con gái nấu đến hai lon gạo, sức trai gặp lúc đói bụng, ông Thương quất hết nồi, vét cả cơm cháy. Ăn xong ông mới giật mình, sao mình lại vô duyên đến thế? “Cái thằng thiệt tình ghê bay. Tao chấm nó rồi đó”. Mẹ của cô gái nói với con khi anh chàng vừa ra khỏi ngõ.
Gặp nhau cũng với cái cười bẽn lẽn của cô gái kéo dài gần 2 năm trời. Đêm đến, ông Thương trộm nghĩ: “Sao mình không tỏ tình với cô gái xem sao?”. Nói là làm, tuần sau ông đến xin gặp cô gái có chút chuyện. Ông ấp a ấp úng: “Tui thương chị, vậy chị có thương tui thì chị nói một tiếng để tui biết mà không ghé nữa”. Cô gái thẹn thùng, mắc cỡ giấu mặt vào tường: “Chuyện này do má tui quyết định”. Nghe được câu này, Thương cảm thấy sướng lâng lâng vì “má” đã có cảm tình với mình. Cấp trên hay chuyện rất ủng hộ nhưng nếu tổ chức đám cưới công khai sẽ bị lộ. Đồng chí Sáu Trí, Trưởng phòng Tình báo miền đề nghị chỉ làm mâm cơm ra mắt ông bà. Năm 1963, họ chính thức trở thành vợ chồng. Cưới xong chưa hết phép, ông lại lên đường làm nhiệm vụ. Từ lần đó, ông ít có cơ hội gặp lại vợ, con. Nhiều lần qua sông Sài Gòn, băng đồng về đến nhà chưa kịp ôm vợ, hôn con là đã nhận tin báo bí mật bị lộ, phải đi gấp. Vợ ông, bà Trần Thị Em, nguyên là cán bộ Ban binh vận, lớn hơn ông một tuổi. “Khi tỏ tình, ông xưng chị là đúng rồi còn gì”, tôi cắc cớ. Nguyễn Văn Thương cười phá lên thay cho câu trả lời. Sau này, cấp trên của ông tổ chức một bữa tiệc ngọt gọi là tiệc cưới thay cho đám cưới bí mật trước kia.
Trần Tuy An
Năm 1978, hai niềm vui đến với ông chỉ cách nhau vài tháng. Niềm vui thứ nhất là ông có thêm một đứa con gái. Thứ hai là được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng. Khi tôi bắt tay vào thực hiện loạt bài, ông có thêm một niềm vui mới: nhận Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng.
 

Bình luận (0)