|
Mỗi sáng sớm, quán cơm này lại rộn lên câu chuyện của những con người tha phương, cầu thực |
“Bán cho tui dĩa cơm tấm 5 ngàn đi cô”. “Bà ơi! Cơm 5 ngàn thì làm sao mà bán. Một cái trứng vịt bây giờ cũng đã gần 3 ngàn rồi. Thôi bà cố thêm cho con 2 ngàn nữa đi. Dĩa cơm 7 ngàn là rẻ nhất rồi đó”…
1. Cái sự kỳ kèo mặc cả có một không hai ấy gần như ngày nào cũng xuất hiện nơi quán cơm tấm chật hẹp ven bờ kênh Nhiêu Lộc. Gọi là quán cho sang, chứ thật ra chỉ vài ba cái bàn ọp ẹp được xếp liền kề nhau, cả người bán lẫn người mua đều lọt thỏm giữa tiếng ồn ào của xe cộ. Bà chủ quán cơm cũng chẳng còn trẻ trung gì nữa. Dấu vết thời gian in hằn trên gương mặt và mái tóc hoa râm của bà ngày một rõ. Cái “sự nghiệp” bán cơm tấm của bà kể ra cũng đã được gần một giáp. Một ngày của bà thường được bắt đầu từ 3 giờ sáng, có khi còn sớm hơn thế nữa để kịp chuẩn bị cho việc bán buôn. Khách đến ăn dường như chẳng mấy ai quan tâm đến cái tên mĩ miều của bà chủ quán đã được người thân đặt cho thuở nào: Phi Yến. Người ta chỉ thấy ngạc nhiên khi mỗi sáng lại có mấy cụ ông, cụ bà với gương mặt khắc khổ và giọng nói thật khó nghe từ một tỉnh miền Trung nào đó đến mua cơm và mặc cả. Ngạc nhiên là phải, bởi ở chốn Sài thành này người ta đã quá quen với việc người bán nói giá bao nhiêu, người mua trả bấy nhiêu, không chèo kéo, phân bua. Ngạc nhiên bởi từ trước tới nay chẳng ai kỳ kèo nơi hàng quán mà ở đó giá tiền dường như đã trở thành mặc định. Ngạc nhiên bởi cùng một dĩa cơm nhưng họ phải trả gấp rưỡi so với những ông bà kia. Lâu dần, những người khách “ruột” hạng “sang” của bà cũng quen với cảnh tượng ấy. Một vài người thậm chí còn hào phóng “bao” luôn bữa cơm cho một ông bà cùng bàn với mình dù chẳng thân thiết hay có mối quan hệ nào.
2. Có hơn chục vị khách hành nghề bán vé số vẫn ghé quán cơm ấy mỗi ngày. Hỏi ra mới biết, mấy cụ ông, cụ bà kia là ở miền Trung, mãi tận Phú Yên. Mỗi ngày, họ đều dậy thật sớm, ăn vội miếng cơm rồi lại la cà ở những quán xá gần đó để mời khách mua vé số. Một số người biết chuyện của họ đã không khỏi giật mình, thương cảm cho cái cảnh thân già vẫn phải lặn lội ở tuổi xế chiều. Dù cách Sài Gòn gần cả 600 cây số nhưng chặng đường ấy vẫn được các cụ đều đặn đi về như… đi chợ. Cứ dăm bữa nửa tháng người ta lại thấy mấy cụ khệ nệ mang vài chục ký gạo, bánh trái đi thăm con, nuôi cháu. Thật khổ! Con cháu các cụ đều là những lao động nghèo, sống bằng công việc lao động chân tay nên chẳng dư dả tiền bạc và thời gian về thăm gia đình. Đứa khá hơn thì đi học nên thành thử cũng chẳng khác đứa đi làm là bao. Chốn Sài thành đắt đỏ, thôi thì đỡ đần cho chúng được đồng mắm, đồng muối nào thì hay chút đó. Tiếng là vào thăm, nhưng các cụ chỉ kịp ngoảnh trước, ngoảnh sau chừng 1, 2 ngày lại tìm về tá túc trong căn nhà thuê của một bà cụ cùng quê có tên là Sáu Lũ. Căn nhà ấy kể ra cũng có “lịch sử” gần 3, 4 năm nay. Theo lời bà Sáu Lũ thì bà cùng chồng từ Phú Yên vào đây năm 2006 với cái nghề “lận lưng” là bán hủ tiếu gõ. Yên ổn được một thời gian thì bờ kênh Nhiêu Lộc buộc phải giải tỏa để xây dựng lại. Bà mất nghề, chuyển qua bán vé số, mỗi ngày lãnh hơn trăm tờ bán dạo khắp các ngả đường rồi gửi tiền về quê nuôi mẹ già, con dại. Thời gian sau, bà tìm mấy người cùng quê đang sinh sống bằng nghề phụ hồ ở các công trình gần đó về thuê chung một ngôi nhà, gọi là có chốn để tối lửa tắt đèn còn biết đường giúp nhau. Mấy ông bà già thương con cháu lâu ngày không được về nhà, lại nghe “tiếng” bà Sáu Lũ đi… buôn vé số nên cũng tranh thủ vào thăm vài ngày, rồi nhờ bà Sáu nhận giùm mấy chục tờ vé số bán dạo để kiếm tiền đi xe về. Ban đầu chỉ là một vài người, sau cả làng biết chuyện, vậy là khăn gói rủ nhau vào đây. Đi dần thành quen, quen dần thành… thích. Cứ vài ba tháng mà chưa được vào Sài Gòn là mấy cụ lại ra chiều khó chịu, lại tìm lý do để… dạt nhà.
Có cụ bà tên An năm nay đã 82 tuổi, bị lãng tai cấp độ nặng, lưng đã còng hẳn xuống nhưng cứ hai tháng lại vào thăm đứa cháu đang học tại một trường cao đẳng nghề. Bà có ba đứa cháu thì một đứa đã nghỉ học ở nhà chăn bò, đứa kế bị liệt nên cũng chẳng học hành gì. May mà đứa này có chí hướng, buổi đi học, buổi đi làm tự kiếm tiền nuôi thân. Năm rồi, Tuy An – quê bà – lũ lụt, cả làng mất mùa, người người phiêu dạt khắp nơi để kiếm sống. Đứa nhỏ mải làm thêm nên Tết cũng chẳng về. Vậy là từ bấy tới nay bà cũng vào thăm cháu được ba bận. Mỗi lần vào thăm cháu, bà ở lại bán vé số tới cả một tuần. Bà bảo, thân già ở quê cũng chẳng đỡ đần được gì, thôi thì cố ở lại kiếm dăm bảy đồng về mua quà cho mấy đứa nhỏ ở nhà. Tụi nó chẳng được đi xa nên thấy quà Sài Gòn thì thích lắm. Hay như bà Trần Thị Minh – 65 tuổi – cũng có đứa cháu trai làm phụ hồ, cháu gái đi học. Ba mẹ chúng ở nhà làm rẫy, vất vả quanh năm mà chẳng thể nào khá lên nổi. Bà vào trước dịp lễ 30-4 và ở lại cho tới giờ. Mỗi tờ vé số bán ra lãi được 1 ngàn đồng, bà gom lại làm lộ phí đi về, có dư thêm đồng nào thì cho đứa kia mua cuốn tập, cây bút. Đi bán lần nào bà cũng khấn ông Địa cho bà đắt khách, sức khỏe… đặng còn vào đây chơi với tụi nó.
Còn ông Phạm Giác, quê ở thị trấn Sông Cầu có dáng gầy gò, gương mặt quắt lại vì nắng gió. Nhà ông có sáu đứa con thì hai đứa vào đây làm chân chạy quán ăn và trông xe. Vài đứa nữa cũng “phiêu” đâu tận Nha Trang, Đà Nẵng. Nhà chẳng có ruộng, cũng chẳng có đồi nên chỉ bà vợ được đặc cách ở nhà trồng rau, chăn gà kiếm sống. Tiền gạo, tiền mắm muối, tiền học cho lũ nhỏ vẫn phải chờ ông và các con gửi về. Thật ra, ông cũng từng kéo bà vào đây làm “đồng nghiệp”. Nhưng bà đi bán được hai bữa thì cả hai lần ông đều phải cất công đi tìm. Bà còn sợ mỗi khi ra đường nhìn dòng xe đông đúc, sợ tiếng ồn ào chẳng bao giờ ngơi nghỉ ở nơi này. Vậy là mỗi tháng, ông chỉ ở với vợ con được 10 ngày, 20 ngày còn lại rong ruổi đôi chân khắp ngã tư Bảy Hiền, ngã sáu Dân Chủ, Công viên Lê Thị Riêng tìm khách.
3. Ấy vậy nhưng chuyện đời chẳng phải lúc nào cũng được như ý muốn. Cái “nghiệp” bán vé số dễ thì dễ thật nhưng không phải ai cũng đủ sức để làm. Cái bản tính tằn tiện, nhịn ăn, nhịn mặc để dành của những con người miền Trung dường như đã ăn vào máu thịt. Nhiều người hà tiện quá, chẳng theo nổi để kịp bán vào những “giờ vàng” lúc buổi sáng, chiều tà cho tới tận đêm khuya với phương tiện đi lại duy nhất là… cuốc bộ. Bởi vậy, một vài cụ sau vài ngày lăn lộn khắp các nẻo đường, quán xá đã đổ bệnh, tiền thuốc thang gấp mấy lần tiền lời từ việc bán vé số. Có cụ mới bán được 3 ngày đã nằm bệnh viện, hết cả chục triệu đồng. Con cháu lại phải chạy vạy khắp nơi mượn tiền để đưa cụ về. Một cụ khác lãnh gần 600 ngàn đồng tiền vé số, mới bán được vài tờ đã bị bọn du côn giật mất, rầu rĩ mất mấy ngày rồi cũng khăn gói về quê. Rồi cái chuyện bị mấy đứa “choai choai” say xỉn chọc ghẹo mà chẳng mua tờ nào vẫn xảy ra như cơm bữa. Không ít lần, các cụ còn bị mấy người “đồng nghiệp” trẻ hơn đuổi mắng vì dám giành “đất” làm ăn bấy lâu nay của họ. Cay đắng cũng lắm, xót xa cũng nhiều nhưng chẳng mấy ai bỏ được nghiệp này. Mọi cố gắng cũng chỉ để được nhìn đàn con, lũ cháu, được dành dụm lo cho tương lai chúng nó sau này…!
Bài, ảnh: Ngọc Anh


Bình luận (0)