Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Những người lính trên bục giảng: Bài 6: “Cuộc tình duyên” vẫn đơm bông

Tạp Chí Giáo Dục

Th.S Nguyễn Trọng Quế trước ngày nhập ngũ

Đang là SV năm thứ nhất Khoa Chế tạo máy Trường ĐH Bách khoa Hà Nội, đi theo tiếng gọi của tổ quốc, ông đã lên đường nhập ngũ. Tuy không vào chiến trường miền Nam nhưng trong 10 năm đứng gác trên vùng biên giới Việt – Lào, anh bộ đội biên phòng Nguyễn Trọng Quế thấy đó là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời binh nghiệp của mình.
Anh sinh viên mặc áo lính biên phòng
Vào những ngày cuối năm 2009, khi quân và dân ta đang chuẩn bị kỷ niệm 3 ngày lễ lớn trong đó có Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12, tôi thật may mắn gặp được nhà giáo Nguyễn Trọng Quế vừa từ cố đô Huế vào TP biển Vũng Tàu họp về công tác giáo dục chuyên nghiệp. Biết anh là một chiến sĩ sau khi xuất ngũ tiếp tục trở về với giảng đường ĐH rồi trở thành thầy giáo của Trường Trung cấp Kỹ nghệ thực hành Huế, nhưng đến hôm nay tôi mới được nghe hết câu chuyện 10 năm canh giữ vùng đất biên giới Việt – Lào trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước: Ông nhắc lại quá khứ: “Năm 1968 sau khi học hết cấp 3 (hệ 10 năm) với thành tích 3 năm là học sinh tiên tiến tôi có giấy gọi đi học ở nước ngoài. Thế nhưng, thời đó người ta còn coi nặng chủ nghĩa lý lịch nên học giỏi chưa phải được ưu tiên hàng đầu. Là học sinh giỏi văn và các môn xã hội nhưng chẳng hiểu sao tôi lại chọn Trường ĐH Bách khoa Hà Nội để theo học ngành chế tạo máy”. Thời điểm này, trong lúc cậu học trò Trường cấp 3 Nguyễn Huệ (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh) cùng các SV sáng chiều bước chân vào lớp học thì tiếng súng ngoài chiến trường vẫn nổ. Nơi đó có rất nhiều bạn bè vừa giã từ quê nhà, trường lớp đang chiến đấu với quân thù. Với tinh thần “Miền Nam đang đổ máu đào/ Thanh niên trai tráng lẽ nào ngồi yên”, cuối năm học đó SV Nguyễn Trọng Quế đã gửi lại thầy cô những ước mơ còn dang dở bên giảng đường để có mặt trong đội ngũ người lính mang quân hàm xanh. Cứ tưởng sẽ tiếp nối câu quân hành: “Xẻ dọc Trường Sơn đi đánh Mỹ” nào ngờ ông lại “rọc ngang” dãy Trường Sơn ngược lên miền Tây Nghệ An đến với biên giới Việt – Lào. Tuy không trải rộng theo chiều dài đất nước nhưng đường hành quân của người lính biên phòng cũng khúc khuỷu như dòng sông Cả và thăm thẳm chẳng kém gì vực sâu bên dốc núi Puxailaileng (huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An). Xã Nậm Cắn nơi các anh giữ chốt đa số là đồng bào dân tộc Mèo sống cheo leo trên vùng rẻo cao còn nhiều tập tục lạc hậu. Vì thế ngoài những buổi đi tuần tra canh gác, các anh phải vào các bản làng sinh hoạt với dân: “Không chỉ cùng ăn, cùng ở, cùng làm mà bộ đội phải cùng nói tiếng nói với dân nữa. Chúng tôi vừa dạy tiếng Kinh cho đồng bào vừa phải học tiếng Mèo để hiểu được tâm tư tình cảm của họ” – ông cho biết. Cái khó thường ló cái khôn, vốn là người có máu văn nghệ lại biết chút ít về nhạc lý ông tìm cách sáng tác một số bài hát lời Mèo được phổ từ làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh. Thế là vài hôm sau từ các lán trại quân đội bỗng vang lên những khúc hát thắm tình cá nước, đượm nghĩa giữa miền xuôi và miền ngược: “Uồn tơ cu thả lụ giòng/ Cu tho trọ ca lọ ti lầu kha cờ…” (Viết thư em báo tin mừng/ Em xin nói lại anh thêm rõ ràng) Âm nhạc trở thành nhịp cầu nối xóa bỏ ranh giới đã ngăn cách từ bấy lâu nay và thiết thực nhất là giúp chiến sĩ học tiếng dân tộc nhanh hơn. Nhờ thế công tác vận động người dân phá bỏ cây thuốc phiện, giữ đất giữ rừng đã có kết quả ngoài mong đợi.
Kỹ sư chế tạo máy “chế tạo” tri thức
Năm 1978, anh bộ đội biên phòng Nguyễn Trọng Quế được xuất ngũ. Giảng đường xưa của Trường Bách khoa vẫn còn đó, sách vở vẫn đang chờ người lính nhưng bạn bè lớp cũ không còn. Giữa đám SV trẻ măng tơ, thầy cô giảng viên Khoa Chế tạo máy lại bắt gặp người học trò năm ấy bây giờ tóc đã nhuộm màu chinh chiến. Lại một cuộc chạy đua mới với thời gian trên con đường chinh phục đỉnh cao trí tuệ dù “gân cốt” kiến thức đã giảm sức bền. Lúc này miền Nam lại vẫy gọi ông nhưng ông không còn phải ra chiến trường mà đi vào bục giảng. Trở thành giáo viên Trường Trung cấp Kỹ nghệ thực hành Huế, ông thật sự kiêu hãnh vì đây là ngôi trường mang đậm dấu ấn lịch sử cách mạng. Trong những ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nơi đây là “ngòi nổ” của các cuộc đấu tranh, biểu tình đòi để tang cụ Phan Chu Trinh, đòi ân xá nhà cách mạng Phan Bội Châu. Cũng chính từ ngôi trường này chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Thừa Thiên – Huế ra đời gieo hạt giống đỏ nảy mầm tới các vùng lân cận. Dù không bước chân vào cổng trường đại học nhưng HS của ông vẫn trở thành những người có ích, những người thợ lành nghề đứng bên các cỗ máy để trực tiếp tạo ra sản phẩm cho xã hội. Thế là từ một kỹ sư chế tạo máy ông chuyển sang “chế tạo” tri thức cho thế hệ trẻ.
Không học trường sư phạm nhưng ông đã mang lấy nghiệp nhà giáo vào thân từ ngày ở trong quân ngũ. Nhà giáo Nguyễn Trọng Quế đã kể lại cho tôi nghe “cuộc tình duyên” đó với bục giảng: “Tôi đã từng là thầy giáo thời mặc áo lính. Đó là giai đoạn đóng quân ở Na Ngoi, anh em chúng tôi đã giúp dân mở lớp dạy chữ”. Nhân chuyện đó tôi hỏi: “Có kỷ niệm nào anh còn nhớ kể cho tôi nghe với”. “Kỷ niệm thì nhiều lắm nhưng có chuyện này tôi nhớ mãi: “Trong một lần xuống bản, tôi gặp một cô giáo Mèo đi dạy, trên núi lại vừa mưa to nên nước suối dâng cao. Thuyền bè không có mà trong lúc các em HS đang chờ trong lớp. Nghĩ tới việc cô bỏ lớp, trễ giờ tôi cũng không yên. Rất may là có mấy người dân đi qua lên tiếng nhờ anh bộ đội… cõng cô qua suối. Là thanh niên mới lớn, lúc đầu tôi cũng ngại cứ đỏ mặt tía tai nhưng thấy ý cô giáo cũng đồng tình nên cuối cùng tôi đánh bạo nghe lời. Thế là lớp học hôm đó vẫn có tiếng giảng bài của cô giáo””. Khi về kể lại cho anh em trong đơn vị ai cũng bảo ông có số đào hoa nhưng với ông đó chỉ là tình cảm chân thật của người miền núi và trên hết là sự tin yêu của người dân đối với anh bộ đội mà thôi.
Hương Thủy
Đã từng giữ chức Phó phòng Đào tạo, Phó phòng GD chuyên nghiệp Sở GD-ĐT tỉnh Thừa Thiên – Huế nhưng ông vẫn gắn bó với nghề dạy học vì “cuộc tình duyên” của ông với bục giảng vẫn cứ đơm bông ngày ngày tháng tháng.
 

 

Bình luận (0)