Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Nghề nặn tò he nơi đất khách

Tạp Chí Giáo Dục

Một người đang làm tò he để bán

Không biết tò he có từ bao giờ, chỉ biết rằng trong các trò chơi dân gian thì tò he có sức hấp dẫn thật kỳ lạ đối với trẻ nhỏ. Giữa cuộc sống tất bật, bận rộn của người dân Sài Gòn, ta vẫn còn thấy đâu đó một thế giới cổ tích với những công chúa, hoàng tử, thuyền rồng, hoa trái… được làm bằng bột. Đó là những sản phẩm độc đáo và vô cùng sáng tạo của cái nghề nặn tò he.
Nghề “muôn năm cũ”!
Trong cái nóng oi bức của buổi trưa, chúng tôi bị hút ngay vào “vương quốc” tò he của anh Đặng Văn Mười, quê ở làng Xuân La, tỉnh Hà Tây (cũ) đang bày bán tại góc vỉa hè đường Nguyễn Sơn, quận Tân Phú, TP.HCM. Khi nói đến lí lịch của nghề này thì anh mỉm cười tâm sự: “Cái anh “tò” này xuất hiện ở quê tôi đã từ rất lâu rồi, tôi là đời thứ 4 của họ Đặng theo nghề đấy. Công nghệ chế biến sản phẩm cũng khá công phu vì nguyên liệu chính để làm tò he là bột gạo nếp. Bột được xay từ gạo nếp Bắc, sau đó được bỏ vào nồi và luộc cho đến khi chín tới. Nếu bột chín quá thì sẽ ướt và nhão, sống quá thì khô, nặn sẽ dễ nứt. Sau khi hoàn thành xong giai đoạn này thì người ta sẽ nắm bột thành từng vắt và nhuộm 4 màu cơ bản là vàng, đỏ, đen và xanh. Màu phải được chế biến từ thực vật như: hoa lè, củ nghệ, cây nhọ nồi, lá chàm, lá riềng… nhằm tránh độc hại cho trẻ em khi chúng ăn phải”.
Chỉ cần một ít bột nếp màu với cây tre nhỏ, dài chừng 40cm, dưới đôi bàn tay tài hoa và khối óc sáng tạo của anh thì những hình ảnh dễ thương thường hay đọng lại trong trí tưởng tượng trẻ thơ của các em nhỏ dần hiện ra ngay trước mắt. Nào là hình Tôn Ngộ Không, Đường Tăng, Đôrêmon hay những con vật như rồng, phượng, sư tử, lợn, gà… có nguồn gốc từ những câu chuyện cổ tích đầy màu sắc được bày bán trên cái bàn gỗ nhỏ trông thật vui mắt. Nhìn những ánh mắt trẻ thơ đang say sưa dõi theo từng động tác vê vê, nắn nắn khéo léo của người thợ nặn tò he mới thấy hết được sức hấp dẫn, lôi cuốn của cái nghề này.
Ông Nguyễn Tiến Đức, năm nay đã 62 tuổi, người cùng làng với anh Mười, vào TP.HCM nặn tò he từ năm 2001 chia sẻ thêm: “Theo các cụ cao tuổi trong làng khi xưa thì Xuân La có thế đất hình con quy hướng về đất Tổ vua Hùng. Đất quý nhưng chật hẹp lắm, cánh đồng ngập nước quanh năm nên không thể nuôi nổi dân làng bằng vụ lúa chiêm. Khi nhàn thì dân làng thường đi tứ xứ, lấy đôi tay khéo léo của mình ra để kiếm thêm đồng tiền, bát gạo. Theo ông thì chỉ cần vài nắm bột đủ màu được chế biến từ gạo, một hộp sáp làm trơn tay, một chiếc lược làm công cụ “điêu khắc”, tất cả được đựng trong chiếc hộp nhỏ. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ là hành trang cần thiết cho cuộc hành trình của những chú tò he nơi đất khách”.
Trước đây đồ chơi cho trẻ em rất hiếm. Tan học, đứa nào được bố mẹ mua cho một con vật hay hình ảnh nào đó được làm bằng bột pha phẩm màu xanh, đỏ là thích lắm. Chính vì thế mà những người nặn tò he hay ngồi ngay trước cổng trường, nhất là những trường tiểu học và mẫu giáo để bày bán những sản phẩm độc đáo của mình. Nhiều khi lũ trẻ chẳng có tiền mua nhưng xúm lại quanh gian hàng, dõi theo đôi bàn tay khéo léo đang nặn những con vật với ánh mắt ngưỡng mộ, cũng khiến cho người thợ cảm thấy vui. Thế nhưng ngày nay những thứ trò chơi hiện đại hơn đã dần thay thế thú vui dân dã đó. Trẻ em giờ thích chơi ô tô, siêu nhân, máy bay hay game online hơn là những món đồ vật thủ công gần gũi với khí trời và hơi thở trong lành nơi đồng quê nên nghề truyền thống này đã gặp không ít khó khăn trong việc duy trì và phát triển.
Nốt nhạc trầm
Cứ vào rằm tháng Giêng của mỗi năm, ở quê anh Mười và ông Đức đều mở hội làng nghề. Bên cạnh nhiều nghề khác như làm bánh dày, bánh rán… thì nghề nặn tò he vẫn là nghề gây được sự chú ý nhất vì đó là nét đẹp truyền thống của cha ông để lại. Với ánh mắt xa xăm, anh Mười thổ lộ với chúng tôi: “Thời buổi giá cả đắt đỏ như thế này, mỗi que tò he chỉ bán với giá năm, sáu nghìn đồng, lãi hai nghìn, mà mỗi ngày bán được mấy que đâu. Chúng tôi vào đây kiếm thêm thu nhập bằng nghề này chỉ là một phần, một phần nữa là muốn giữ lại cái nghề lâu đời này”.
Thế nhưng con đường mưu sinh bằng nghề bán tò he thật khó khăn, vất vả. “Mỗi ngày chỉ kiếm được vài ba chục ngàn đồng là vui lắm rồi, nhiều lúc ế ẩm, bột để lâu không dùng được nữa, đã thế lại thường xuyên bị xua đuổi khỏi các cổng trường hay những vỉa hè ngoài đường phố. Cứ như thế mãi thì mai đây còn được mấy người thích nặn tò he” – ông Đức bùi ngùi tâm sự.
Thế đấy, hồn cốt của tò he, những tác phẩm nghệ thuật chứa đựng vẻ đẹp tinh tế và đậm nét văn hoá của làng quê Việt Nam bây giờ đang phải chịu sức ép của gánh nặng mưu sinh thật cơ cực và bấp bênh. Thoáng buồn, nhưng những người dân như anh Mười, ông Đức vẫn tiếp tục gắn bó đời mình với những cây tò he. Và thỉnh thoảng đâu đó trên phố phường đông đúc, người ta vẫn bắt gặp hình ảnh ngộ nghĩnh đầy màu sắc ấy bước ra từ huyền thoại trong những câu chuyện cổ tích thời xưa bé, hiện rõ dưới đôi bàn tay của các nghệ nhân dân với chút niềm vui trẻ thơ rất giản dị giống như chính cuộc sống làng quê chất phác của họ vậy.
Chia tay những nghệ nhân này, trong đầu chúng tôi vẫn ám ảnh một câu hỏi: Liệu sau này, cái nghề nặn tò he vừa vui vừa dân dã lại rất tài hoa này có bị mai một trước guồng quay của cuộc sống hiện tại?
Bài, ảnh: Nguyên Hải

Hãy đánh giá bài viết này!

Số điểm trung bình của bài viết (số sao) / 5.

Chưa có ai đánh giá bài viết này! Hãy là người đầu tiên đánh giá

Bạn đã đánh giá bài viết này hữu ích!

Hãy theo dõi chúng tôi trên mạng xã hội

Bình luận (0)