Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Thuyền thúng Phú Yên: Kỳ 1: Hồi sinh làng nghề Phú Mỹ

Tạp Chí Giáo Dục

Lao động nữ ở Phú Mỹ với nghề đan thuyền thúng

Từ đặc điểm địa lý, thiên nhiên, kết hợp với khối óc và đôi tay tài hoa, người dân miền Trung đã sáng tạo ra phương tiện đi lại, sinh hoạt phù hợp, đó là thuyền thúng. Ưu điểm của thuyền thúng đã mở ra cơ hội cho làng nghề hồi sinh.
Xuất hiện từ hơn 100 năm trước
Từ hơn trăm năm trước, rải rác một số địa phương thuộc các tỉnh miền Trung đã xuất hiện nghề đan thuyền thúng. Tuy nhiên, lúc bấy giờ thuyền thúng ra đời chỉ để phục vụ nhu cầu đi lại trên biển của một số gia đình có nghề đánh bắt thủy hải sản gần bờ. Qua thời gian, từ những chiếc thuyền thúng đơn điệu được cải tiến với mẫu mã đẹp, độ tinh xảo, an toàn cao có thể phục vụ cho người dân vùng lũ. Thuyền thúng có hình dáng như một chiếc thúng mà trước đây, bất kỳ gia đình người dân miền Trung nào cũng có từ một đến vài chiếc.
Nằm rải rác ở một số địa phương phía Bắc tỉnh Phú Yên như xã An Hải, An Thạch, An Dân, huyện Tuy An và Xuân Cảnh, Xuân Thọ… của huyện Sông Cầu đều có gia đình theo nghề đan thuyền thúng. Tuy nhiên, nghề đan thuyền thúng lâu đời và phát triển nhất hiện nay là làng nghề Phú Mỹ (thôn Phú Mỹ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên). Theo ông Trần Hữu Hiệu, Chủ tịch UBND xã An Dân, thôn Phú Mỹ có khoảng 50 hộ gia đình theo nghề với quy mô lớn, còn lại không dưới 30 hộ hoạt động nhỏ lẻ. Mỗi hộ có từ 3 đến 4 lao động lành nghề với tổng thu nhập trung bình không dưới 12 triệu đồng/ tháng/ hộ. Nếu như trước đây, người dân làng nghề chỉ đan thuyền thúng khi mùa màng đã thu hoạch hoặc sau mùa gieo sạ thì nay, công việc này làm xuyên suốt năm. Thiên tai, dịch họa diễn biến khó lường dẫn đến mùa màng cho năng suất thấp khiến người dân không còn mấy mặn mà với đồng áng. Hơn nữa, thuyền thúng hiện đã có đầu ra tốt nên người người, nhà nhà theo nghề. Hoạt động với quy mô nhỏ, chủ yếu nhận hoàn thành một số công đoạn đơn giản như gia đình ông Nguyễn Văn Bảy, thôn Phú Mỹ thu nhập trung bình (3 thợ) cũng không dưới 6 triệu đồng/ tháng. Ông Bảy cho biết: “So với nhiều gia đình khác thì đây là khoản thu nhập không cao nhưng được cái ổn định, tháng nào cũng có hàng để làm”.
Nếu ai có dịp thiên lý Bắc – Nam qua quốc lộ 1A, đoạn thuộc cầu Nhân Mỹ, thôn Phú Mỹ, xã An Dân sẽ thấy hàng trăm chiếc thuyền thúng úp bên vệ đường chờ chuyên chở và hàng trăm chiếc còn ở “sân phơi” kéo dài lên đến 1.000m. Hầu hết các công đoạn cuối để hoàn thành sản phẩm như quét dầu, phơi… đều diễn ra bên đường dưới cái nắng bỏng da của miền Trung. Hình ảnh những người thợ tất bật với nghề cho thấy nghề này độc đáo và cũng lắm công phu. Bà Nguyễn Thị Lý (73 tuổi) kể lại: “Năm 13 tuổi, ông nội tôi đã biết đan các loại rổ, rá, thúng và thúng chai (tên địa phương của thuyền thúng – PV). Hết đời ông, cha và chú của tôi lại nối nghiệp. Ngày còn sống, cha tôi chính là người mang mẫu vào tận Phan Thiết để chào hàng. Một tháng sau, chuyến hàng đầu tiên với 5 chiếc thuyền thúng của gia đình được chuyển vào. Sau lần đó, đơn đặt hàng của gia đình tăng lên theo từng tháng. Có tháng 5-6 thợ làm ngày làm đêm nhưng vẫn không đủ hàng để giao”.
Thoát nghèo

Anh Nguyễn Văn Tí (37 tuổi) dù chỉ mới theo nghề đan thuyền thúng tròm trèm 7 năm nhưng các con có điều kiện đến trường, nhà cửa đàng hoàng cũng nhờ thu nhập từ nghề này. Anh Tí nói: “Mùa màng có thất bát cũng không lo chạy vạy tìm cái ăn. Trung bình mỗi tháng bán ra từ 5-7 chiếc, sau khi trừ chi phí nguyên vật liệu, công cán cũng cho lãi 4 triệu đồng”. Điều dễ nhận thấy là nghề đan thuyền thúng phát triển đã giải quyết số lượng lớn lao động nhàn rỗi ở địa phương, đặc biệt là lao động nữ. Nhiều năm trước, đàn ông, thanh niên trong làng đều phải đi làm ăn xa. Đến mùa gặt, gieo sạ chỉ toàn thấy phụ nữ thì nay lại tề tựu về cùng nhau gầy dựng nghề truyền thống của gia đình với mỗi hộ từ 3-5 lao động.
80 tuổi đời, 60 năm tuổi nghề, ông Phan Hổ – một trong số ít bậc cao niên của nghề còn sót lại khẳng định, trong số các nghề đan lát thủ công của Việt Nam không có nghề nào khó bằng nghề đan thuyền thúng. Chính vì cái khó của nghề mà hiện nay có rất ít thợ lành nghề. Theo đó, nhiều nhất là lao động đảm trách một số công đoạn đơn giản, không đòi hỏi kỹ thuật và sự khéo léo. Chứng kiến biết bao thăng trầm của nghề, ông Hổ bồi hồi nhớ lại: “Đầu năm 2000, hàng chục hộ theo nghề đan thuyền thúng lao đao vì tin đồn thất thiệt lan truyền nhanh chóng. Những năm ấy, thị trường lớn của thuyền thúng là Phan Thiết nhưng nhiều chuyến hàng chuyển vào với hàng trăm chiếc không ai mua, cứ chất đống ngoài nắng đến rệu rã. Tôi cùng một số người thợ trẻ cất công vào tận nơi để tìm hiểu nguyên nhân. Sau nhiều ngày, kết quả là do người cùng nghề ở làng khác đố kỵ, nổi cơn sân si tung tin đồn thất thiệt là do thuyền Phú Mỹ làm không đúng kỹ thuật nên một chiếc bị đánh úp làm 3 ngư dân bị kẹt dưới thúng và chết ngộp. Đúng là có chuyện 3 ngư dân chết nhưng nguyên nhân không liên quan gì đến thuyền thúng. Dịp này, tôi đã đi đến từng nhà ngư dân ở Phan Thiết giải thích rồi mất gần tháng tập cho họ cách sử dụng, kinh nghiệm đi thuyền thúng khi có sóng to gió lớn. Sau “sự kiện” đó, thuyền thúng bán chạy như tôm tươi, thị trường mở rộng ra cả các tỉnh phía Nam.
Bài, ảnh: Trần Anh
Thôn Phú Mỹ là một trong những thôn có số hộ nghèo nhất nhì của xã An Dân. Nghề nghiệp chính nuôi sống người dân là trồng lúa, hoa màu và chăn nuôi. Nhưng từ khi nghề thuyền thúng hồi sinh, số hộ nghèo giảm đáng kể. Nhiều gia đình đã vươn lên có cuộc sống sung túc, ấm no.
Kỳ 2: Nghề lắm công phu

Bình luận (0)