|
Ông Nguyễn
|
Người có mặt trên chuyến tàu
gỗ đầu tiên xuất phát từ Nam (Bến Tre) ra Hà Tĩnh nắm tình hình đường biển để
thực hiện vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam là ông Nguyễn Văn Đức (hiện
là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Q.5, TP.HCM). Với tài đấu trí và lòng dũng cảm,
ông có mặt trên hàng chục chuyến tàu không số, trong đó có 14 chuyến an toàn…
gỗ đầu tiên xuất phát từ Nam (Bến Tre) ra Hà Tĩnh nắm tình hình đường biển để
thực hiện vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam là ông Nguyễn Văn Đức (hiện
là Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Q.5, TP.HCM). Với tài đấu trí và lòng dũng cảm,
ông có mặt trên hàng chục chuyến tàu không số, trong đó có 14 chuyến an toàn…
Chuyến trinh sát 10 ngày
Việt Nam có hơn 3.000km bờ biển
là lợi thế để mở đường chuyển vũ khí. Bộ Tư lệnh nghiên cứu mở đường, bí mật vận
chuyển. Thời gian ấy, đồng bào ở Đồng bằng sông Cửu Long chuẩn bị thuyền từ 2-3
tấn. Quân giải phóng trong phong trào Đồng Khởi, các đồng chí có sức khỏe và
người dân có kinh nghiệm đi biển để sẵn sàng chờ lệnh.
là lợi thế để mở đường chuyển vũ khí. Bộ Tư lệnh nghiên cứu mở đường, bí mật vận
chuyển. Thời gian ấy, đồng bào ở Đồng bằng sông Cửu Long chuẩn bị thuyền từ 2-3
tấn. Quân giải phóng trong phong trào Đồng Khởi, các đồng chí có sức khỏe và
người dân có kinh nghiệm đi biển để sẵn sàng chờ lệnh.
Ngày 1-6-1961, tại Bến Tre có
hai chuyến tàu xuất phát với nhiệm vụ đi trinh sát, tìm hiểu tình hình để chuẩn
bị cho chiến dịch ra Bắc chở vũ khí vào Nam. Một trong hai chuyến đầu tiên ấy
có sáu người, trong đó đồng chí Huỳnh Bá Tiên là thư ký mặt trận làm thuyền trưởng,
ông Nguyễn Văn Đức là thuyền phó hàng hải. Ông Đức kể lại: “Trên tàu không có
la bàn, lương thực không đủ ăn, nước không đủ uống, anh em phải nhịn đói nhịn
khát. Cứ gặp tàu tuần tiễu là giả vờ lấy ngư cụ chuẩn bị sẵn thả lưới. 10 ngày
sau, tàu cũng ra đến Hà Tĩnh. Ra đón tàu có đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng và Phạm
Văn Đồng với niềm vui sướng tột cùng”.
hai chuyến tàu xuất phát với nhiệm vụ đi trinh sát, tìm hiểu tình hình để chuẩn
bị cho chiến dịch ra Bắc chở vũ khí vào Nam. Một trong hai chuyến đầu tiên ấy
có sáu người, trong đó đồng chí Huỳnh Bá Tiên là thư ký mặt trận làm thuyền trưởng,
ông Nguyễn Văn Đức là thuyền phó hàng hải. Ông Đức kể lại: “Trên tàu không có
la bàn, lương thực không đủ ăn, nước không đủ uống, anh em phải nhịn đói nhịn
khát. Cứ gặp tàu tuần tiễu là giả vờ lấy ngư cụ chuẩn bị sẵn thả lưới. 10 ngày
sau, tàu cũng ra đến Hà Tĩnh. Ra đón tàu có đồng chí Lê Duẩn, Phạm Hùng và Phạm
Văn Đồng với niềm vui sướng tột cùng”.
Ông Đức báo cáo tình hình
trên biển cho các đồng chí ở Bộ Tư lệnh. Sau hai chuyến tàu đầu tiên đi an
toàn, bốn tàu nữa cũng ra đến nơi và tháng 2-1961 thêm một tàu từ Bà Rịa cũng cập
bến. Ngày 23-10-1961, Quân ủy quyết định thành lập Đoàn 759 và từ tháng 10 đến
tháng 12-1962 cho đóng hàng loạt tàu sắt để đi thí điểm ngay trong năm. Chuyến
tàu đầu tiên chở vũ khí vào Nam xuất phát từ mũi Đồ Sơn (Hải Phòng), sáu ngày
sau tàu cập bến Vàm Lũng, Cà Mau an toàn. Đây là mốc quan trọng tiếp sức cho
chiến trường miền Nam. Vì gặp gió mùa đông bắc thổi mạnh, các tàu gỗ từ trong
Nam ra trước đó trên đường chở vũ khí vào Nam phải quay vào bờ tránh gió, đến
tháng 3-1962 mới khởi hành. Sau những chuyến thí điểm chở vũ khí vào Nam thành
công, trong vòng ba năm từ 1963 đến 1965, các chuyến tàu có trọng tải từ 50-100
tấn liên tục cập bến an toàn.
trên biển cho các đồng chí ở Bộ Tư lệnh. Sau hai chuyến tàu đầu tiên đi an
toàn, bốn tàu nữa cũng ra đến nơi và tháng 2-1961 thêm một tàu từ Bà Rịa cũng cập
bến. Ngày 23-10-1961, Quân ủy quyết định thành lập Đoàn 759 và từ tháng 10 đến
tháng 12-1962 cho đóng hàng loạt tàu sắt để đi thí điểm ngay trong năm. Chuyến
tàu đầu tiên chở vũ khí vào Nam xuất phát từ mũi Đồ Sơn (Hải Phòng), sáu ngày
sau tàu cập bến Vàm Lũng, Cà Mau an toàn. Đây là mốc quan trọng tiếp sức cho
chiến trường miền Nam. Vì gặp gió mùa đông bắc thổi mạnh, các tàu gỗ từ trong
Nam ra trước đó trên đường chở vũ khí vào Nam phải quay vào bờ tránh gió, đến
tháng 3-1962 mới khởi hành. Sau những chuyến thí điểm chở vũ khí vào Nam thành
công, trong vòng ba năm từ 1963 đến 1965, các chuyến tàu có trọng tải từ 50-100
tấn liên tục cập bến an toàn.
Ông Nguyễn Văn Đức sớm giác
ngộ cách mạng, tham gia phong trào Đồng Khởi, công tác Đoàn ở xã. Đêm ông đặt
chân lên chiếc tàu gỗ ra Bắc, tuổi ông vừa tròn đôi mươi. Người duy nhất đưa tiễn
con tàu ra Bắc chỉ có chỉ huy. Ông Đức có mặt ở hàng chục chuyến tàu chở vũ
khí, hầu hết đều cập bến an toàn. Ở những chuyến đầu, ông Đức là thủy thủ trưởng,
những chuyến sau ông là thuyền phó, thuyền trưởng hàng hải kiêm nhiệm vụ tổ chức
chiến đấu.
ngộ cách mạng, tham gia phong trào Đồng Khởi, công tác Đoàn ở xã. Đêm ông đặt
chân lên chiếc tàu gỗ ra Bắc, tuổi ông vừa tròn đôi mươi. Người duy nhất đưa tiễn
con tàu ra Bắc chỉ có chỉ huy. Ông Đức có mặt ở hàng chục chuyến tàu chở vũ
khí, hầu hết đều cập bến an toàn. Ở những chuyến đầu, ông Đức là thủy thủ trưởng,
những chuyến sau ông là thuyền phó, thuyền trưởng hàng hải kiêm nhiệm vụ tổ chức
chiến đấu.
Đấu trí trên biển
Có mặt trên nhiều chuyến tàu,
trong đó có hai chuyến của tàu Phương Đông 1 mà trong cuộc đời ông không bao giờ
nguôi quên. Đó là lúc ông và những chiến sĩ trên tàu cảm nhận được ranh giới giữa
sống và chết mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông. Cuộc tổng tấn công Mậu
Thân đợt 3 chiến trường miền Nam hết vũ khí. Trước tình hình căng thẳng trên biển,
tàu do thám, vệ tinh… của địch huy động theo dõi. Phương án “đốt 100 bó đuốc để
bắt một con ếch” của ta được triển khai nhanh chóng. Tức trong 100 chuyến tàu
chở vũ khí, bằng mọi cách phải có một tàu vào Nam thành công. Ông Đức nhận nhiệm
vụ khá nặng nề với lòng quyết tâm cao độ. Nhằm bọc lót, hỗ trợ chiến đấu, bốn
chiếc tàu ở bốn nơi khác nhau xuất phát cùng một thời điểm và làm thế nào cả bốn
cùng đến điểm canh gác gắt gao. Qua ống nhòm, ông Đức thấy ba chiếc tàu kia
cũng đang đến gần. Vào đến Mỹ Á, Sa Huỳnh, Quảng Ngãi biển vẫn êm. Trăng non
soi bóng con tàu dũng mãnh xuống dòng nước mênh mông. Tàu vào bắc đảo Lý Sơn
lúc 9 giờ đêm. 3 giờ sau, tàu khu trục của Mỹ theo gần, đánh đèn và bao vây.
Chưa đầy nửa giờ sau, hơn 20 chiếc tàu khác lại kéo đến vây kín, nổ súng vang
trời. Chiếc C47 thả pháo sáng rực cả vòm trời. Ba khẩu 12 ly 7 trên tàu Phương
Đông 1 sẵn sàng chiến đấu, bắn rơi một máy bay của địch. Còn chiếc BCF cũng bị
dính đạn chao đảo và bay mất hút sau đó. Loạt đạn đầu của địch khiến thuyền trưởng
tàu Phương Đông 1 hy sinh. Các anh em nhất trí phương án lao tàu vào bờ phá tàu
phi tang và tìm đường thoát. Tàu vừa lao nhanh vừa bắn trả để giữ khoảng cách
an toàn. Đến 2 giờ sáng, tàu vào bờ, vài người lên trước, một số ở lại với nhiệm
vụ mở dây cháy chậm, kíp điện, kíp hóa học hẹn 30 phút nổ. Nhiều anh em bị
thương nặng, trong đó có ông Đức. Người bị thương nhẹ cõng người bị thương nặng
và đi lạc trên núi, sau đó gặp du kích địa phương đưa xuống hầm bí mật để sơ cứu
vết thương. Hơn tuần sau, chiến sự tạm lắng mới đưa lên bệnh xá Đặng Thùy Trâm
điều trị.
trong đó có hai chuyến của tàu Phương Đông 1 mà trong cuộc đời ông không bao giờ
nguôi quên. Đó là lúc ông và những chiến sĩ trên tàu cảm nhận được ranh giới giữa
sống và chết mỏng manh như sợi chỉ mành treo chuông. Cuộc tổng tấn công Mậu
Thân đợt 3 chiến trường miền Nam hết vũ khí. Trước tình hình căng thẳng trên biển,
tàu do thám, vệ tinh… của địch huy động theo dõi. Phương án “đốt 100 bó đuốc để
bắt một con ếch” của ta được triển khai nhanh chóng. Tức trong 100 chuyến tàu
chở vũ khí, bằng mọi cách phải có một tàu vào Nam thành công. Ông Đức nhận nhiệm
vụ khá nặng nề với lòng quyết tâm cao độ. Nhằm bọc lót, hỗ trợ chiến đấu, bốn
chiếc tàu ở bốn nơi khác nhau xuất phát cùng một thời điểm và làm thế nào cả bốn
cùng đến điểm canh gác gắt gao. Qua ống nhòm, ông Đức thấy ba chiếc tàu kia
cũng đang đến gần. Vào đến Mỹ Á, Sa Huỳnh, Quảng Ngãi biển vẫn êm. Trăng non
soi bóng con tàu dũng mãnh xuống dòng nước mênh mông. Tàu vào bắc đảo Lý Sơn
lúc 9 giờ đêm. 3 giờ sau, tàu khu trục của Mỹ theo gần, đánh đèn và bao vây.
Chưa đầy nửa giờ sau, hơn 20 chiếc tàu khác lại kéo đến vây kín, nổ súng vang
trời. Chiếc C47 thả pháo sáng rực cả vòm trời. Ba khẩu 12 ly 7 trên tàu Phương
Đông 1 sẵn sàng chiến đấu, bắn rơi một máy bay của địch. Còn chiếc BCF cũng bị
dính đạn chao đảo và bay mất hút sau đó. Loạt đạn đầu của địch khiến thuyền trưởng
tàu Phương Đông 1 hy sinh. Các anh em nhất trí phương án lao tàu vào bờ phá tàu
phi tang và tìm đường thoát. Tàu vừa lao nhanh vừa bắn trả để giữ khoảng cách
an toàn. Đến 2 giờ sáng, tàu vào bờ, vài người lên trước, một số ở lại với nhiệm
vụ mở dây cháy chậm, kíp điện, kíp hóa học hẹn 30 phút nổ. Nhiều anh em bị
thương nặng, trong đó có ông Đức. Người bị thương nhẹ cõng người bị thương nặng
và đi lạc trên núi, sau đó gặp du kích địa phương đưa xuống hầm bí mật để sơ cứu
vết thương. Hơn tuần sau, chiến sự tạm lắng mới đưa lên bệnh xá Đặng Thùy Trâm
điều trị.
Năm 1972, tàu Phương Đông 1 từ
Bắc vào đến địa phận Bình Định thì bị địch phát hiện. Chúng bắt loa với công suất
lớn liên tục hàng giờ dội vào tàu ta: “Tôi biết các anh từ Bắc Việt chở vũ
khí vào Nam. Hãy đầu hàng để…”. Tàu Phương Đông 1 vẫn vững tay lái đi giữa
Trường Sa. Thuốc nổ cũng đã cài quanh thân tàu, gắn kíp nổ liên hoàn chuẩn bị nếu
tàu địch áp sát thì chúng ta cho nổ. “Anh em đã nhất trí phương án dù thế nào
cũng không để vũ khí, tàu và người rơi vào tay chúng. Khi cần thiết chúng ta sẽ
hy sinh, mà mình hy sinh thì tàu của địch cũng tan tành”, ông Đức nói. Kế hoạch
là vậy nhưng ông Đức bình tĩnh cầm lái cho tàu chạy ra đường công hải (đường biển
quốc tế) để ép địch phải tôn trọng Luật Hàng hải quốc tế. Tàu khu trục Mỹ theo
sát bốn ngày. Tàu to, cao sừng sững như núi, có lúc chỉ cách nhau chừng 30 mét.
Đúng như những gì ông Đức nghĩ, địch không nổ súng. Đến đảo Hải Nam, tàu ta đã
cắt đuôi tàu địch và cập bến nhờ tài đấu trí và những quyết đoán của ông Đức.
Bắc vào đến địa phận Bình Định thì bị địch phát hiện. Chúng bắt loa với công suất
lớn liên tục hàng giờ dội vào tàu ta: “Tôi biết các anh từ Bắc Việt chở vũ
khí vào Nam. Hãy đầu hàng để…”. Tàu Phương Đông 1 vẫn vững tay lái đi giữa
Trường Sa. Thuốc nổ cũng đã cài quanh thân tàu, gắn kíp nổ liên hoàn chuẩn bị nếu
tàu địch áp sát thì chúng ta cho nổ. “Anh em đã nhất trí phương án dù thế nào
cũng không để vũ khí, tàu và người rơi vào tay chúng. Khi cần thiết chúng ta sẽ
hy sinh, mà mình hy sinh thì tàu của địch cũng tan tành”, ông Đức nói. Kế hoạch
là vậy nhưng ông Đức bình tĩnh cầm lái cho tàu chạy ra đường công hải (đường biển
quốc tế) để ép địch phải tôn trọng Luật Hàng hải quốc tế. Tàu khu trục Mỹ theo
sát bốn ngày. Tàu to, cao sừng sững như núi, có lúc chỉ cách nhau chừng 30 mét.
Đúng như những gì ông Đức nghĩ, địch không nổ súng. Đến đảo Hải Nam, tàu ta đã
cắt đuôi tàu địch và cập bến nhờ tài đấu trí và những quyết đoán của ông Đức.
Bài, ảnh: Trần
Trọng Tri
Trọng Tri
Bài 4: Người ém tàu số một


Bình luận (0)