Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Chuyện chưa biết về quận chúa Hỷ Khương: Kỳ cuối: Người bảo tồn di sản thơ ca Ưng Bình Thúc Giạ Thị

Tạp Chí Giáo Dục

Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương và phụ thân trước cửa ngõ “Châu Hương Viên” năm 1958 (ảnh do nhân vật cung cấp)
Có những bài thơ, câu hò của Ưng Bình Thúc Giạ Thị được nhiều người thuộc lòng nhưng không biết được thời gian và hoàn cảnh ra đời. Những ai quan tâm, tìm hiểu thì tài liệu tin cậy nhất không đâu khác ngoài quận chúa Hỷ Khương.
Sở dĩ nhà thơ Hỷ Khương nhớ rõ nguồn gốc, xuất xứ từng bài thơ, điệu hò của cha là vì cứ mỗi lần viết xong, cha bảo bà hò và nghe cha giải thích tường tận. Thế nên, nhiều nhà nghiên cứu di sản thơ ca Huế của Ưng Bình Thúc Giạ Thị ở Huế, trong Nam, ngoài Bắc hay ở nửa bên kia trái đất cũng tìm về Thùy Khương trang.
Giải mã nguồn gốc thơ của cha
Mỗi lần đến Huế, được du thuyền, nghe hò Huế trên dòng Hương Giang, chắc chắn không thể không nghe những câu hò như đã đi vào dân gian của Ưng Bình Thúc Giạ Thị: “Chiều chiều trước bến Vân Lâu/ Ai ngồi ai câu, ai sầu, ai thảm?/ Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?/ Thuyền ai thấp thoáng bến sông?/ Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”. Chữ “Ai” trong những câu hò trên bao nhiêu năm nay vẫn chưa ai trả lời chính xác là ai. Nhà thơ Hỷ Khương cho biết, vào chiều thu năm 1954, cha tôi bảo tôi ngâm bài thơ này và giải thích: “Thuở ấy có tin vua Duy Tân giả dạng thường dân ra ngồi câu cá ở Phủ Văn Lâu, chờ gặp Trần Cao Vân để bàn chuyện quốc sự. Chữ “Ai” ấy nói về vua Duy Tân. Có lẽ tin vua Duy Tân giả dạng thường dân làm ông xúc động nên mới có thể viết những câu hò bất hủ”. GS. Trần Văn Khê khi thuyết trình nhạc truyền thống Việt Nam ở quốc gia nào ông cũng hò những câu này nhưng ông cứ đinh ninh đó là câu hát trong dân gian như những câu hò cấy miền Nam, hò khoan Quảng Ngãi, hò giã gạo miền Trung… Mãi đến sau này gặp hiền muội Hỷ Khương ông mới biết đó là của Ưng Bình Thúc Giạ Thị. GS. Trần Văn Khê bày tỏ: “Ít nhà thơ nào, trừ cụ Nguyễn Du với Truyện Kiều được dân chúng nhớ lời thơ mà quên tên tác giả như thế. Bởi một nhà thơ sáng tác câu hò hay điệu hát mà dân gian chấp nhận không còn nhớ tên người đặt tức là câu hò, điệu hát đó phù hợp với cảm nghĩ, suy tư, hoài bão, nguyện vọng của dân chúng”.
Dịp kỷ niệm 115 năm ngày sinh của Ưng Bình Thúc Giạ Thị tại TP.HCM, hôm ấy nhà văn Sơn Nam nhắc lại mấy câu hò của Ưng Bình Thúc Giạ Thị viết về quả sầu riêng trong Câu hát chợ phiên Sài Gòn: “Chiều hôm qua em xuống chợ phiên/ Em mua một quả sầu riêng em về/ Biểu anh anh lại cười chê/ Chê mùi lạ lạ gái nhà quê đã mua lầm / Ôm quả sầu riêng em qua miền Rạch Giá/ Bâng khuâng trong dạ quay lại ngã Gò Công/ May may nhằm buổi chợ đông/ Gặp Bạc Liêu công tử bán mấy chục đồng cũng mua”. Đó là những câu hò mà thi thoảng về miền Tây ta nghe các cụ ông, cụ bà vừa nằm trên võng đòng đưa vừa hò. Câu hát chợ phiên đã được Ưng Bình Thúc Giạ Thị viết vào năm 1948, khi Sài Gòn mở chợ phiên. Cái thú vị ở chỗ câu hò không chỉ giới thiệu đến các địa danh ở miền Tây hay trái sầu riêng đặc sản của miền Nam mà còn nhắc lại câu chuyện lý thú của chàng công tử Bạc Liêu nổi tiếng hào phóng đốt tiền nấu trứng, đốt tiền tìm đồng xu của bạn đánh rơi… “Cái gì dưới ngòi bút của cha cũng thành sự, lưu lại cho đời bao nhiêu tình tự, bao nhiêu thích thú, bao nhiêu bài học mà tôi không bao giờ quên”. Quận chúa Hỷ Khương bồi hồi.
Người yêu thơ ca, hò Huế cảm thấy thích thú khi đọc bài Cơm độc lập – Nước tự do của Ưng Bình Thúc Giạ Thị nhưng cảm thấy chưa đủ khi chưa biết câu hò viết trong hoàn cảnh nào. “Tay xách nước chè một hũ/ Tay đùm cơm bới một mo/ Cơm độc lập – nước tự do/ Đứng ngoài cửa ngục gửi vô cho chồng”. Nhà thơ Hỷ Khương nhớ lại: “Vào khoảng năm 1950-1953, Tòa Khâm sứ ở Huế là chỗ giam phần lớn người dân vô tội bị bắt trong các cuộc bố ráp ở thôn quê. Một buổi chiều đi ngang qua cửa tòa, thấy người phụ nữ tay xách hũ nước chè, tay ôm gói cơm bới nên dừng lại hỏi thăm. Biết chồng bà ta là một nông dân chất phác vừa bị Tây bắt giam. Mủi lòng và chua xót trước cảnh tượng này, ông đã viết câu hò”.
Tiếng lòng của quận chúa
Nhà thơ Hỷ Khương bảo bà giống cha không chỉ yêu thơ, làm thơ mà còn giống cả cách cảm về cuộc sống, về thế sự trên đời.
Ưng Bình Thúc Giạ Thị làm quan, phẩm hàm Lễ bộ thượng thư trí sự nhưng không lấy đó làm đích, ông từng xem cái ghế của ông là “Hàng ghế dịch lên năm bảy tấc/ Thẻ bài thêm lớn một vài ly”. Nhà thơ Hỷ Khương cho biết: “Cha tôi làm quan nhưng cả đời sống thanh liêm, ngày ông cởi áo quan, trả thẻ bài để sống với thú điền viên thì gia tài không có gì khác ngoài căn nhà bé nhỏ ở thôn Vỹ Dạ”.
Căn nhà của cha bà nằm ở thôn Tây Thượng, bên bờ sông Hương. Từ ngoài đường đi vào thấy trên cổng có ba chữ “Chu Hương Viên” và câu đối hai bên: “Khoái mã trường chu đông tây đắc lộ/ Hầu môn cự thất tả hữu vi lân”. Nghĩa là phía đông có đại lộ, phía tây có bến sông, cả hai đường bộ và đường thủy đều thuận lợi. Bên trái có nhà của một vị đại thần, bên phải có nhà của một bậc triệu phú, cả hai đều là hàng xóm láng giềng. Và một câu đối bằng chữ Nôm: “Ưng đọc thi tiên, thẳng đó một đường lên Vỹ Dạ/ Muốn nghe kinh phật, cách đây vài cửa đến ba La”. Đến thời Ngô Đình Diệm, người ta mở đường rộng để đi Thuận An nên cái cổng và câu đối phải phá đi. Cha bà rất buồn. Một thời gian sau cha bà cho trồng lại ở cửa ngõ hai bụi tre vàng và làm thơ nhắn bạn hữu tới thăm chơi: Đường thượng thôn thẳng tới/ Đò bến Cạn đưa sang/ Đây đây cửa ngõ tre vàng/ Ghé thăm Thúc Giạ nghe chàng tụng kinh. Nhiều bạn hữu tới thăm thắc mắc sao cụ không viết “nghe chàng ngâm thơ” mà lại “nghe chàng tụng kinh”? Cha bà cười nói: “Làm thế là để siêu thăng cho cái cửa ngõ”.n
Trần Tuy An

Đón đọc loạt bài: Nhạc sĩ và ca khúc “để đời”

Đó là những nhạc sĩ một thời vang bóng như: Thanh Sơn, Cao Văn Lầu, Nguyễn Văn Thương, Nguyễn Văn Tý, Tô Thanh Tùng… với các ca khúc “để đời” như Nỗi buồn hoa phượng, Dạ cổ hoài lang, Đêm đông, Dư âm, Giã từ

 

Bình luận (0)