Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

Nhân rộng các mô hình thành công của đề án 1 triệu hécta lúa chuyên canh chất lượng cao

Tạp Chí Giáo Dục

Ngày 23-11-2024, tại TP.Cần Thơ, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia – Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn (NN&PTNT), phối hợp Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam và Báo Nông nghiệp Việt Nam tổ chức diễn đàn “Giải pháp nhân rộng các mô hình thí điểm thành công của đề án Phát triển bền vững 1 triệu hécta chuyên canh lúa chất lượng cao (CLC) và phát thải gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL đến năm 2030” (gọi tắt là đề án).

Tham dự có ông Nguyễn Ngọc Hè – Phó Chủ tịch UBND TP.Cần Thơ cùng lãnh đạo UBND nhiều tỉnh vùng ĐBSCL; ông Bùi Bá Bổng – Chủ tịch Hiệp hội ngành hàng lúa gạo Việt Nam; đại diện các viện, trường đại học, và các doanh nghiệp trong ngành lúa gạo cả nước.

Ông Nguyễn Ngọc Hè – Phó Chủ tịch UBND TP.Cần Thơ, khẳng định ý nghĩa và sự cần thiết của diễn đàn trong thực hiện đề án

Đề án 1 triệu hécta lúa CLC được Thủ tướng phê duyệt, ban hành theo Quyết định số 1490/QĐ-TTg ngày 27-11-2023. Triển khai đề án này, từ vụ hè thu 2024, Bộ NN&PTNT phối hợp các địa phương, đơn vị có liên quan thực hiện các mô hình thí điểm tại 5 tỉnh, thành vùng ĐBSCL.

Ông Lê Thanh Tùng – Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, thông tin: 7 mô hình thí điểm thuộc đề án được thực hiện tại TP.Cần Thơ, Đồng Tháp, Kiên Giang, Trà Vinh và Sóc Trăng, với quy mô khoảng 50ha trên 1 mô hình. Các mô hình này đại diện cho các vùng thượng, hạ, giữa ĐBSCL: “Trong đó Kiên Giang có 2 mô hình là lúa và lúa tôm với tổng diện tích khoảng 200.000ha. Trà Vinh cũng có những mô hình đã gắn biển hiệu: Giảm chi phí, giảm phát thải. Đây được coi là hướng đi tích cực. Sự vào cuộc tích cực, hăng hái của bà con nông dân, sự chung tay của doanh nghiệp và các cấp chính quyền đang cho thấy nhiều tín hiệu tốt” – ông Tùng nói.

Ông Lê Thanh Tùng – Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, thông tin về 7 mô hình thí điểm vụ thứ nhất thuộc đề án

Kết quả, các mô hình thí điểm đã khẳng định hiệu quả: Nâng cao hiệu quả sản xuất, tăng lợi nhuận cho nông dân so với ngoài mô hình, giảm mạnh lượng phát thải khí nhà kính nhờ giảm lượng sử dụng giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thực hiện tưới ướt khô xen kẽ và thu gom rơm ra khỏi đồng. Qua các mô hình thí điểm đã có lúa thu hoạch trong vụ hè thu và thu đông vừa qua cho thấy, nông dân có thể giảm 40-50% lượng giống gieo sạ và giảm chi phí 10-15% trở lên, năng suất lúa cao hơn từ 2-7 tạ/ha, lợi nhuận tăng 4-7,6 triệu đồng/ha so với ngoài mô hình…

Theo lãnh đạo Cục Trồng trọt, có 12/13 tỉnh ĐBSCL đang thực hiện chương trình 1 triệu hécta lúa, trừ Bến Tre do diện tích không còn. Khoa học kỹ thuật cũng đang phát triển mạnh ở vựa lúa lớn nhất cả nước. Theo thống kê của Cục Trồng trọt, với 1,7 triệu hécta lúa ở ĐBSCL chỉ có 2 máy gặt đập liên hợp năm 2006. Sau đó 6 năm, có tới 12.000 máy gặt đập liên hợp, cho thấy tốc độ phát triển vũ bão.

Ông Tùng cho rằng nếu có khoa học kỹ thuật phù hợp, thì sự phát triển sẽ mặc nhiên nhanh chóng. Do vậy trọng tâm là đào tạo và chuyển giao công nghệ, đây là chìa khóa mở ra các cánh cửa. Khúc mắc nhất hiện nay là huy động nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, vấn đề này đang được Ban chỉ đạo chương trình xử lý. “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” – là cái tên trong thời gian tới:

“Trong tương lai, nhiệm vụ của đề án vẫn là nhân rộng mô hình theo hướng chuỗi giá trị, cơ sở dữ liệu sinh thái, phát triển công nghệ, thay đổi hành vi, tăng cường năng lực. Mô hình kinh doanh mới, minh chứng lợi ích đầu tàu trong chuỗi giá trị ngành hàng lúa gạo. Chúng tôi thấy rằng cần sự chung tay, giúp đỡ nhiều hơn nữa từ Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và các đơn vị, doanh nghiệp, để nông dân có nhiều thông tin hữu ích” – Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt trình bày.

Trong phiên tọa đàm, các đại biểu trao đổi, thảo luận, đề xuất giải pháp, kiến nghị nhằm nhân rộng các mô hình thí điểm…

Đại biểu tham gia thảo luận tại diễn đàn

Ông Nguyễn Ngọc Hè – Phó Chủ tịch UBND TP.Cần Thơ, cho rằng: Qua triển khai đề án, Cần Thơ và một số địa phương ĐBSCL quan tâm 5 vấn đề trọng tâm, đầu tiên là công tác bồi dưỡng, tập huấn cho cán bộ cấp cơ sở, như khuyến nông viên, nông dân, hợp tác xã (HTX) nằm trong vùng đề án. Kế tiếp là xây dựng, nhân rộng các mô hình nằm trong phạm vi của đề án, ví dụ như sản xuất lúa gạo theo quy chuẩn, ứng dụng các công nghệ để xử lý rơm rạ, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số.

Thứ ba là đầu tư nguồn​ lực vào cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn như giao thông, thủy lợi, điện, nước, môi trường… Trọng tâm tiếp theo là xây dựng liên kết chuỗi giá trị giữa HTX và doanh nghiệp. Cuối cùng là nguồn vốn để hỗ trợ cho các HTX, doanh nghiệp bao tiêu cho các sản phẩm nằm trong vùng dự án​

Quang cảnh diễn đàn

Theo nhiều đại biểu, để tối ưu quản lý, hệ thống canh tác, sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp, cần tổng hợp một bộ dữ liệu đầy đủ về đất, dinh dưỡng cây trồng, cơ sở hạ tầng, quản lý rơm rạ… Phần lớn các tỉnh hiện đang dựa vào định lượng cơ bản chứ chưa có cơ sở dữ liệu chính xác dẫn đến chưa tối ưu hóa được chi phí đầu tư. Vì vậy, các trường đại học và viện nghiên cứu cần tham gia mạnh mẽ hơn vào đề án để cùng xây dựng bộ dữ liệu hoàn chỉnh. Ngoài ra, công nghệ và thực hành phải phù hợp với điều kiện từng vùng chuyên biệt, thúc đẩy ứng dụng số để hỗ trợ kết nối nông dân và doanh nghiệp, xây dựng mô hình và kế hoạch kinh doanh minh bạch, rõ ràng, tạo được sự tin tưởng của ngân hàng để vay vốn thuận lợi.

Bên cạnh đó, hỗ trợ nông dân đẩy mạnh áp dụng cơ giới hóa và các giải pháp khoa học, công nghệ mới. Thực hiện hiệu quả việc giảm giống, nước tưới và các loại vật tư đầu vào, cũng như quản lý, sử dụng hiệu quả rơm rạ để nâng cao chuỗi giá trị lúa gạo và giảm phát thải khí nhà kính…

Đặc biệt, cấp thiết tăng số lượng thành viên HTX. TS. Trần Minh Hải – Phó Hiệu trưởng Trường Chính sách công và Phát triển nông thôn, phân tích: “Gia tăng số lượng thành viên HTX sẽ giúp mở rộng diện tích sản xuất, tạo điều kiện áp dụng cơ giới hóa và các công nghệ hiện đại trong nông nghiệp… Hiện tại, một HTX trung bình ở ĐBSCL chỉ có khoảng 80 thành viên, thấp hơn nhiều so với mức trung bình 200 thành viên của cả nước và con số 1.500 thành viên tại Thái Lan.

Thu hoạch lúa trong thực hiện thí điểm đề án tại TP.Cần Thơ

Khi HTX trở thành các tổ chức vững mạnh, có khả năng quản lý hiệu quả và đáp ứng nhu cầu thị trường, sẽ phát huy vai trò cốt lõi trong nền kinh tế nông thôn hiện đại; đồng thời phát triển chuỗi giá trị, tạo ra sản phẩm chất lượng, góp phần nâng cao đời sống thành viên… Ngoài ra Nhà nước và các tổ chức tài chính cần tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc liên kết giữa HTX và doanh nghiệp. Việc hỗ trợ vốn, giảm lãi suất và các chính sách ưu đãi khác sẽ khuyến khích các doanh nghiệp hợp tác với HTX để mở rộng quy mô sản xuất”.

Đan Phượng

Bình luận (0)