
Trời mưa trời gió,/ Vác đó đi đơm,/ Chạy về ăn cơm,/ Chạy ra mất đó,/ Thật là đồ chó,/ Lấy đó của tao!
Nhiều năm sau này, chúng tôi lại được tiếp cận thêm các dị bản ca dao khác: Trời mưa trời gió, vác đó đi đơm,/ Trở về ăn cơm, trở ra mất đó,/ Kể từ ngày thương đó, đó ơi,/ Ðó chưa thưa được một lời cho đây nghe! Trời mưa trời gió vác đó ra đơm,/ Chạy về ăn cơm, chạy ra mất đó,/ Kể từ ngày xa đó, đó ơi/ Đó không phân qua nói lại đôi lời cho đây nghe!
Và cuối cùng là bài ca dao: Trời mưa, trời gió/ Vác đó(1) ra đơm,/ Chạy về ăn cơm/ Chạy ra mất đó(2),/ Kể từ ngày mất đó(3), đó(4) ơi,/ Răng đó(5) không phân qua nói lại đôi lời cho đây hay?
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, danh từ “đó1” chỉ “Đồ đan thường bằng tre, nứa, hình ống, có hom, dùng để đón bắt cá, tôm, tép. Ví dụ: Đơm đó. Tham đó bỏ đăng”. Còn đại từ “đó2” là từ đồng âm, “người nói dùng để gọi người đối thoại một cách thân mật hoặc trịch thượng, sỗ sàng; đối lập với đây (là từ người nói dùng để tự xưng). Ví dụ: Trăng kia làm bạn với mây/ Đó mà làm bạn với đây thiệt gì? (ca dao)”.

Trong bài ca dao còn xuất hiện động từ “lấy” là từ đa nghĩa, gồm có 9 nghĩa, mà nghĩa thứ 3 là “Làm cho trở thành của mình cái vốn là của người khác. Ví dụ: Lấy cắp. Lấy làm của riêng”, còn nghĩa thứ 9 là khẩu ngữ, chỉ sự “Kết hôn, thành vợ thành chồng với nhau. Ví dụ: Lấy chồng. Lấy vợ người cùng quê. Lấy vợ cho con (khẩu ngữ: cưới vợ cho con)”. Cạnh đó, từ “phân” là dạng rút gọn của động từ “phân bua”, “Trình bày để cho người ta đừng có nghi ngờ mình, đừng có nghĩ xấu cho mình” và từ “hay” là rút gọn động từ “hay biết” với nghĩa “Biết là có điều nào đó đã xảy ra. Ví dụ: Chẳng hay biết gì”.
Bối cảnh của sự việc “mất đó” gồm khá nhiều chi tiết, hành động “trời mưa trời gió”, “chạy về”, “chạy ra” làm người đọc hình dung ra cảnh vất vả, gian nan, vội vàng, tất bật trong lo âu của chàng trai, tuy khó khăn khổ sở vẫn cố sức trông chừng, không rời mắt trông giữ ngư cụ như giữ của quý, thế mà chỉ vì một thoáng “chạy về ăn cơm” lơ là trong phút chốc, “chạy ra” đã bị mất tất cả. Lo sợ mất nhưng cuối cùng vẫn không thể giữ được!
Bài ca dao từ các câu đầu bốn chữ ngắn gọn, ngắt nhịp dồn dập thể hiện hành động tất bật, vội vã như khúc hát đồng dao hồn nhiên, chuyển sang hai câu cuối thể lục bát biến thể dàn trải mênh mang, với âm điệu trầm buồn, day dứt, kéo dài đầy tha thiết, chua xót, than vãn, nuối tiếc trong bất lực, ngầm ẩn ý trách cứ người tình dửng dưng phụ bạc, đột ngột chia tay.

Mượn sự cố đột ngột mất chiếc đó, bắc cầu sang nói về chuyện bị phụ tình, tác giả dân gian đã chuyển loại danh từ (chiếc đó) sang đại từ (người đó), không chỉ duy với chủ đích dùng nghệ thuật chơi chữ thường gặp, mà còn bộc lộ sự đau xót sâu sắc khu trú không biết tự bao lâu trong tâm hồn chàng trai “kể từ ngày ai lấy đó”.
Bi kịch tình yêu tan vỡ khiến cho tâm hồn người con trai căng như một sợi dây đàn, chỉ một tác động nhẹ cũng ngân rung lên thành bao nhiêu âm giai da diết từ cõi lòng của chàng: buồn thương, day dứt, trách móc, thở than, nuối tiếc, đợi chờ, ngóng trông trong vô vọng… Tiếng lòng của chàng trai đồng vọng vượt lên khỏi câu chữ của bài ca dao, đã cộng hưởng với sự đồng cảm, thấu hiểu sâu sắc của bao thế hệ người đọc.
Tác giả dân gian đã vận dụng đặc sắc hiện tượng từ đa nghĩa, mượn sự cố mất chiếc đó để thổ lộ sự kiện mất người yêu thương, mất chiếc đó cũng là mất người.
Kể từ ngày ai lấy đó, đó ơi,/ Răng đó không phân qua nói lại đôi lời cho đây hay? Đại từ phiếm chỉ “ai” không chỉ ẩn chứa nỗi niềm nghi vấn, thắc mắc bất lực, mà còn ngầm ẩn tiếng lòng thổn thức từ đáy sâu tâm can, cùng lời trách móc kín đáo mà chua cay, nhẹ nhàng mà đau xót, trách người con gái phụ tình, đột ngột chia tay mà không một lời phân bua bày tỏ, đành đoạn âm thầm dứt áo sang ngang!
Trong bài ca dao, từ “đó” lần lượt xuất hiện 5 lần với các nghĩa khác nhau. Ba từ “đó” ở phần trước bài ca dao với nghĩa tường minh, chắc chắn là chỉ chiếc đó đơm cá, nhưng đến từ “đó” thứ tư kết hợp với từ “ơi” – là từ thường dùng sau từ chỉ đối tượng hô ứng – kết hợp thành tiếng gọi một cách thân mật, thân thiết theo mô-tip “thuyền ơi có nhớ bến chăng…” thì “đó” không còn là công cụ nữa, mà nhằm chỉ người từng thân tình với mình đã lâu. Cụm từ “ai lấy đó” cũng ngay lập tức chuyển từ nghĩa “ai ăn trộm chiếc đó” sang nghĩa “kẻ nào đã cưới/cướp người yêu thương của mình”. Đến từ “đó” cuối cùng trong bài ca dao kết hợp với từ “đây”, thì không còn phân vân, nghi ngờ gì nữa, đó-đây, qua tiền giả định kín đáo mà tình tứ, chính là tỏ bày về đôi bạn tình đã từng một thời yêu đương, gắn bó với nhau sâu sắc.
Đến đây người viết chợt cảm nhận rõ hơn nghĩa bóng của cặp từ “đó-đây” khi liên tưởng đến một bài ca dao khác sử dụng đối xứng hai cặp đối tượng khắng khít “đó-đây”, “em-chàng”, trong tình huống trái ngược: là lời thủ thỉ tâm tình chứa chan hạnh phúc của cô gái. Đó với đây không dây mà buộc,/ Em với chàng không thuốc mà say. Càng thấy thương cảm tái tê hơn trước nỗi niềm chua xót, đắng cay của chàng trai trách cứ tình nhân, cũng là lời tự trách bản thân: Kể từ ngày ai lấy đó, đó ơi,/ Răng đó không phân qua nói lại đôi lời đây hay?
Bao nhiêu yêu thương, tha thiết dành cho tình nhân nhưng cuối cùng một lời phân bua đáp lại của “đó” sau bao đợi chờ vô vọng, cũng không hề có, khiến “đây” tan nát tâm can, đắng cay trong tuyệt vọng, tương tự tâm trạng thất vọng, xót xa của một chàng trai khác trong bài ca dao “gàu-giếng”: Tưởng giếng sâu anh nối sợi gàu dài,/ Ai ngờ giếng cạn, tiếc hoài sợi dây.
Không rõ có phải bắt nguồn từ bài ca dao ý vị trên hay không, mà một nhà hát hiện đại hàng đầu Việt Nam mới ra đời gần đây tại Nha Trang lại mang tên “Đó theatre” với tạo hình chiếc đó mộc mạc, giản dị – công cụ bắt cá truyền thống, lâu đời của nông dân; ngoài tên gọi mang đậm bản sắc văn hóa Việt gây ấn tượng, kiến trúc độc đáo của nó còn tạo sức hút mãnh liệt mời gọi du khách đặt chân khám phá thành phố biển.
Nỗi niềm đắng cay, chua xót về thân phận người phụ nữ và tình cảm yêu thương chung thủy của người bình dân trong xã hội cũ từng được thể hiện chân tình và sâu sắc qua chùm “ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa” được dạy trong chương trình THPT: “Thân em như tấm lụa đào/ Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”, “Thân em như củ ấu gai/ Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen…”, “Đôi ta nghĩa nặng tình dày/ Có xa nhau đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”.
Còn tiếng lòng thổn thức, chua xót của chàng trai bị phụ tình, bi kịch tình yêu tan vỡ, bộc lộ qua bài ca dao “mất đó” đa tầng ý nghĩa ở trên là một âm giai khác lạ, bổ sung vào kho tàng ca dao phong phú, thể hiện tâm tình tinh tế, đa điệu của người bình dân thuở trước.
Đỗ Thành Dương

Bình luận (0)