Sự kiện giáo dụcPhóng sự - Ký sự

Khí thế Cách mạng tháng Tám ở Đà Nẵng – Huế: Từ ngọn lửa quần chúng đến cuộc chuyển giao lịch sử

Tạp Chí Giáo Dục

T tiếng còi tm báo hiu khi nghĩa Đà Nng đến cuc mít tinh lch s Huế và s kin Bo Đi thoái v, Cách mng tháng Tám 1945 đã đi vào lch s bng khí thế qut khi, s đng lòng ca nhân dân và mt cuc chuyn giao chưa tng có. 80 năm đã trôi qua, mùa thu lch s y vn in đm trong mch ngun lch s ca dân tc v mùa thu ca khát vng đc lp và sc mnh ca qun chúng đã m ra k nguyên mi ca t do, đc lp dân tc.

Ông Nguyễn Trung Chính – nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế nhớ lại mùa thu 1945 

Sc mnh qun chúng Đà Nng

Sau cuộc Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, cục diện chính trị Đà Nẵng thay đổi nhanh chóng. Quân Nhật vừa khống chế Pháp, vừa dựng bộ máy cai trị thân Nhật với Tôn Thất Gián làm Tỉnh trưởng Quảng Nam và Nguyễn Khoa Phong làm Đốc lý Đà Nẵng; các đảng phái như Cao Đài, Đại Việt cũng xuất hiện. Sau ngày 15-8-1945, khi Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng, quân Nhật từ Bình Định đến Quảng Nam dồn về Đà Nẵng tới 5.000 tên, gây lo ngại cho cách mạng.

Trong bối cảnh đó, cơ sở Việt Minh đã phát triển mạnh. Theo chỉ đạo, ông Lê Văn Hiến thương lượng với tư lệnh Nhật, yêu cầu quân Nhật án binh bất động, không can thiệp nội bộ; ngược lại, ta vận động cách mạng Quảng Ngãi ngừng tấn công để Nhật thu nhặt thương binh, tử sĩ. Sách lược này thành công, mở đường cho khởi nghĩa ở Đà Nẵng diễn ra hòa bình. Đêm 25-8, Ủy ban bạo động thành phố họp, thống nhất lấy tiếng còi tầm sáng hôm sau làm hiệu lệnh. 8 giờ ngày 26-8-1945, khi còi tầm vang lên, Việt Minh đồng loạt chiếm lĩnh cơ sở, nhà máy, treo cờ đỏ sao vàng, tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ. Một giờ sau, cờ đỏ đã phủ kín thành phố. Tại Tòa Đốc lý, ông Lê Văn Hiến nhân danh Việt Minh tiếp nhận con dấu và hồ sơ từ Nguyễn Khoa Phong, kéo cờ đỏ sao vàng thay cờ quẻ ly. Đà Nẵng chính thức giành chính quyền.

Ngày 28-8, gần 3 vạn người dự mít tinh tại Sân vận động Chi Lăng mừng độc lập và ra mắt Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời thành phố, ông Lê Văn Hiến giữ chức Chủ tịch. Từ đây, Đà Nẵng mang tên “thành Thái Phiên” – biểu tượng cách mạng của miền Trung. Trước đó, ngày 22-8, Ủy ban bạo động Hòa Vang cũng giành chính quyền chỉ trong một buổi sáng. Những truyền đơn kêu gọi binh lính Nhật án binh bất động đã phát huy tác dụng, giúp Đà Nẵng giành thắng lợi nhanh gọn.

Các thành viên trong Ban Lao động khởi nghĩa giành chính quyền tại Quảng Nam – Đà Nẵng năm 1945 (ông Lê Văn Hiến ở giữa). Ảnh tư liệu

Cùng với sức mạnh quần chúng trong ngày khởi nghĩa, Đà Nẵng còn có nền tảng của một phong trào học tập và khai sáng từ trước. Ra đời từ phong trào Duy Tân, Trường An Phước (nay là Tiểu học An Phước) ở vùng Hòa Vang được xem như “hạt giống đầu tiên” gieo mầm học trên đất Đà Nẵng hơn một thế kỷ trước. Từ lớp học chữ Nho của ông tú Lâm Hữu Mẫn năm 1888, đến khi chuyển hẳn sang dạy quốc ngữ, ngôi trường đã trở thành điểm tựa cho tinh thần canh tân và khát vọng độc lập. Khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, nhiều học trò An Phước đã hòa mình vào dòng người đi giành chính quyền. Trong hai cuộc kháng chiến sau này, hơn 400 cựu học sinh của trường đã anh dũng hy sinh, hàng trăm người khác trở thành cán bộ cao cấp, giáo sư, tiến sĩ. PGS.TS Trần Ngọc Toản, cựu học trò An Phước từng là chiến sĩ du kích trẻ tuổi nhất tham dự Hội nghị Chiến sĩ thi đua toàn quốc năm 1953, là một trong những minh chứng sống động cho truyền thống ấy. Hơn 110 năm qua, tinh thần “nghĩa thục – duy tân” từ An Phước vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục được thầy và trò hôm nay gìn giữ, phát huy trong sự nghiệp đổi mới giáo dục.

Trong ký ức của ông Lê Trung Chinh – nguyên Chủ tịch UBND TP.Đà Nẵng, cựu học sinh Trường Tiểu học An Phước (khóa 1975-1980), ngôi trường ngày ấy chỉ có hai dãy phòng học. Học trò nhiều em mặc quần đùi, đi chân đất; sân trường có giếng nước, nô đùa nóng quá lại múc nước tắm. Thầy cô phần lớn từ Hòa Vang, cũng có người từ dưới phố lên, dạy trong điều kiện khó khăn nhưng đầy trách nhiệm. Họ thường đến tận nhà thăm hỏi, động viên, trao đổi với phụ huynh về việc học hành của con em. Ông Chinh nhớ, môn đạo đức được dạy rất nghiêm. Đặc biệt, thầy Cần để lại nhiều dấu ấn sâu sắc. Dù đã lớn tuổi, thầy vẫn tận tụy rèn từng nét chữ, phép tính, lời ăn tiếng nói, luôn nhắc trò “gắng học để thành người”. Chính tấm gương ấy đã ảnh hưởng để ông Chinh sau này chọn nghề sư phạm. Dù ở cương vị nào, gần chục năm nay ông Chinh vẫn đồng hành cùng An Phước. Những suất học bổng nghĩa tình của người học trò cũ lặng lẽ tiếp sức cho nhiều em nhỏ vượt khó đến trường.

Biu tưng ca s chuyn giao lch s

Nếu Đà Nẵng giành chính quyền bằng những bước đi khôn khéo và dứt khoát, thì Huế – cố đô của chế độ phong kiến cuối cùng lại chứng kiến một cuộc chuyển giao quyền lực mang tính biểu tượng. Cụ Nguyễn Văn Tiên, cán bộ tiền khởi nghĩa, nay gần 100 tuổi, vẫn nhớ rõ những ngày sục sôi ấy. Khi đó, mới 18 tuổi và đang học tại Trường Quốc học Huế, ông đã trở về quê Lộc Bổn (Phú Lộc, Thừa Thiên – Huế cũ) tham gia phong trào. Với cương vị Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cứu quốc xã, ông cùng đồng đội vận động nhân dân nổi dậy. Ngày 15-8, Lộc Bổn giành chính quyền; tiếp đó, phong trào lan ra Tổng An Nong, huyện Phú Lộc ngày 19-8 và đỉnh cao là ngày 23-8-1945, khi hàng vạn nhân dân kéo về TP.Huế. “Thời kỳ đó, tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc. Lúc đó, tôi 18 tuổi, làm Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cứu quốc xã, vận động đồng bào ngày 15-8 giành chính quyền ở xã, xong chúng tôi huy động dân kéo đến giành chính quyền ở Tổng An Nong, huyện Phú Lộc. Đến 19-8, tiếp tục huy động đi giành chính quyền huyện Phú Lộc, rồi 23-8 huy động dân giành chính quyền tỉnh”, cụ Tiên kể.

Đỉnh cao của khí thế ấy là cuộc mít tinh ở sân vận động Huế ngày 23-8. Theo kế hoạch của Chính phủ Trần Trọng Kim, đó là buổi lễ mừng việc Nhật trao trả quyền cai trị Nam Kỳ. Nhưng thực tế, nó đã biến thành một cuộc biểu dương lực lượng cách mạng. Hàng vạn người mang cờ đỏ sao vàng, hô vang “Việt Nam độc lập muôn năm!”. Đồng chí Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa, đọc diễn văn tuyên bố chính quyền về tay nhân dân, đồng thời ra mắt Ủy ban Nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh.

Ông Nguyễn Trung Chính, 96 tuổi, nguyên Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế, đánh giá: “Thật hiếm có một cuộc chuyển giao quyền lực lịch sử nào trên thế giới diễn ra trong không khí trật tự, hòa bình như tại Huế. Dấu ấn đặc biệt nhất là chuyện Bảo Đại thoái vị, trao ấn kiếm để góp phần cùng cả nước giành chính quyền thắng lợi một cách trọn vẹn, không đổ máu. Tất cả hoạt động đi đến đỉnh cao là lật đổ chế độ phong kiến”.

Chiều 30-8-1945, vua Bảo Đại chính thức thoái vị. Sự kiện này khép lại chế độ quân chủ phong kiến kéo dài hàng nghìn năm ở Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới: kỷ nguyên nhân dân làm chủ đất nước. Nhà nghiên cứu Dương Phước Thu nhận định: “Cách mạng tháng Tám thành công ở Huế đến hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Thứ nhất là lòng yêu nước của nhân dân, khát vọng hòa bình, giải phóng bản thân, gia đình và quốc gia. Thứ hai là quyền của người dân được phát huy. Cách mạng tháng Tám là sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thống nhất xung quanh một chính đảng có tổ chức, có sự lãnh đạo, để họ đồng lòng, đồng sức đứng lên giành chính quyền”.

Cách mạng tháng Tám không chỉ là một sự kiện lịch sử mà là biểu tượng của lòng dân, của trí tuệ tổ chức và của khát vọng độc lập. 80 năm đã trôi qua, mùa thu năm 1945 vẫn còn nguyên giá trị tinh thần, minh chứng cho sức mạnh đoàn kết, cho khát vọng độc lập và tự do của dân tộc Việt Nam.

Hàn Giang

Bình luận (0)