Trong một dịp về lại Trường ĐH Sư phạm TP.HCM sau 20 năm ra trường, tôi gặp các bạn cựu sinh viên Khoa Toán – Tin khóa K27 và được nghe những lời chia sẻ từ các thầy cô giảng viên của trường. TS. Nguyễn Thái Sơn (nguyên Trưởng khoa Toán – Tin) kể lại trải nghiệm cá nhân khi chứng kiến hành trình “lột xác” của Trường ĐH Sư phạm TP.HCM từ những dãy nhà mái tôn trở thành các tòa nhà cao tầng, khang trang như hiện nay.

Có thể từng lớp thế hệ thầy cô giáo đã già đi theo thời gian nhưng cũng từ đó là sự lớn mạnh của tập thể và cá nhân, của thế hệ hậu bối…
Hành trình phát triển cùng đất nước
80 năm ngành giáo dục đã cùng đi với hành trình phát triển và vận mệnh của đất nước. Từ những giai đoạn khó khăn, dân trí còn thấp, khi đó phong trào “Bình dân học vụ” mang trên mình sứ mệnh xóa nạn mù chữ, mở ra cánh cửa tri thức cho hàng triệu người dân. Trong khói lửa chiến tranh, giáo dục vẫn kiên trì gieo mầm học vấn, nuôi dưỡng ý chí độc lập, tự cường, đào tạo các lớp thế hệ “vừa hồng vừa chuyên” góp phần cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bước vào thời kỳ hòa bình và công cuộc đổi mới đã đưa giáo dục sang một trang mới, tập trung nâng cao chất lượng, mở rộng cơ hội học tập, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền tảng văn hóa – khoa học vững chắc. Suốt chặng đường ấy, giáo dục không chỉ phản ánh nhịp phát triển của xã hội mà còn khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, niềm tự hào dân tộc, trở thành sức mạnh nội sinh đưa Việt Nam vững bước hội nhập cùng thế giới. Hiện nay hệ thống giáo dục đa dạng với nhiều loại hình đào tạo, từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục không ngừng được bồi dưỡng, nâng cao trình độ; một số trường ĐH của Việt Nam có mặt trong bảng xếp hạng khu vực và thế giới… Giáo dục ngày càng gắn với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, mở rộng cơ hội cho mọi người dân tiếp cận giáo dục có chất lượng, học tập suốt đời. Xuyên suốt các thời kỳ đều lấy phương châm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đặt con người làm trung tâm của mọi chính sách phát triển. Bên cạnh những thành quả đạt được, ngành giáo dục vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn như chất lượng đào tạo chưa đồng đều giữa các vùng miền; cơ sở vật chất ở một số nơi còn hạn chế; áp lực đổi mới chương trình, phương pháp dạy học; yêu cầu về nhân lực chất lượng cao trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra gay gắt…
Chương trình giáo dục “mở” nhưng đừng “bóp nghẹt” đầu ra
Đứng trước tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 cũng như sự phát triển vượt bậc về khoa học công nghệ, ngành giáo dục Việt Nam đang có những thay đổi cần thiết. Giáo dục đổi mới toàn diện nội dung, phương pháp và mô hình giáo dục, chuyển từ truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực, phẩm chất; tăng cường tính thực tế để đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn; tăng cường ứng dụng công nghệ số và trí tuệ nhân tạo trong giảng dạy, quản lý và đánh giá… Đó cũng chính là điều được phụ huynh học sinh và dư luận xã hội quan tâm về Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) 2018, triển khai đại trà một chương trình, nhiều bộ sách giáo khoa (SGK). Những điểm mới ở chương trình được trông chờ sẽ là một làn gió mới giúp nền giáo dục nước nhà khởi sắc. Thứ nhất là, cho phép học sinh được lựa chọn tổ hợp môn tự chọn theo sở thích và năng lực. Thứ hai là, cho phép học sinh lựa chọn bộ SGK phù hợp. Thứ ba là, hướng tới việc áp dụng kiến thức bài học để giải quyết các vấn đề thực tiễn trong cuộc sống. Đây được xem là “xương sống” trong việc thực hiện Chương trình GDPT 2018. Tuy nhiên, các mục tiêu này đang dần bộc lộ những yếu điểm “chết người”. Bởi vì, việc lựa chọn môn học tự chọn đầy rủi ro, rất khó để “quay đầu xe”, nhất là thời điểm lựa chọn tổ hợp môn học là lúc học sinh vừa bước vào môi trường THPT, chưa kịp làm quen với phương pháp học mới, chưa lường hết được những khó khăn trong quá trình học, nhất là sở thích có thể thay đổi, khả năng của học sinh có thể không phù hợp với lựa chọn ban đầu. Bên cạnh đó, thiếu sự đồng bộ giữa các bộ SGK, nội dung trong các bộ SGK có nhiều câu hỏi liên hệ thực tế chỉ là “vỏ bọc” gán ghép khiên cưỡng.
“Mở” chưa hẳn đã hay, “đóng” chưa phải là dở
Với góc nhìn của một nhà giáo, tôi cho rằng một chương trình, nhiều bộ SGK là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của nhiều nước có nền giáo dục tiên tiến. Tuy nhiên, việc thẩm định nội dung và thống nhất khung chương trình chung là trách nhiệm của Bộ GD-ĐT. Tôi cho rằng định hướng “giảm tính hàn lâm, tăng tính ứng dụng” là đúng nhưng quan điểm cho rằng “giảm áp lực học tập” thì chưa đúng. Và tôi không đồng tình quan điểm “đi tắt đón đầu” trong GD-ĐT. Nếu không xây kiến thức nền tảng thật chắc chắn mà cố “leo cao đón gió” thì thật sự vô cùng nguy hiểm. Hậu quả kèm theo là cuộc chạy đua về thành tích, là sự dễ dãi trong đánh giá học sinh. Tôi cho rằng cần dừng ngay việc xét tuyển ĐH bằng học bạ. Nó đang “giết chết” môi trường giáo dục, làm triệt tiêu ý chí cầu tiến của học sinh, làm lu mờ đạo đức nghề nghiệp của thầy cô giáo. Sự kỳ vọng giảm áp lực cho học sinh, nhưng vô hình trung lại đặt áp lực lên giáo viên trong vai trò “cầm cân nảy mực”. Đánh giá nghiêm túc thì sợ học sinh bị thiệt thòi nhưng đánh giá “nương tay”, “cải thiện” điểm số là cái đà cho sự chây lười ở học sinh. Nhiệm vụ cấp bách của giáo dục là đánh giá đúng kết quả học tập, mức độ rèn luyện theo mục tiêu cần đạt của chương trình giáo dục phổ thông, chứ không phải là “làm đẹp” học bạ bằng điểm số “ảo”. Đổi mới là cần thiết nhưng phải thận trọng, cần đồng bộ giữa việc dạy-học-thi. Tác động của thi cử ảnh hưởng rất nhiều đến việc dạy và học. Đừng để áp lực thi cử biến học sinh là nạn nhân của những “thử nghiệm” mãi chưa nghiệm thu.
Kỳ vọng một nền giáo dục tiên tiến
“Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” là các tiêu chí đã được UNESCO đề xuất. Thế nhưng với những thành tựu đột phá của công nghệ thông tin và trí tuệ nhân tạo (AI) đã tác động sâu đến nhiều lĩnh vực xã hội, đặc biệt là GD-ĐT. Học không chỉ để biết mà học còn để biết cách sử dụng, khai thác, vận hành các nền tảng công nghệ một cách chủ động, hiệu quả. Giáo dục ngày nay cần phát triển năng lực tự học và tư duy phản biện ở học sinh. Vì vậy, giáo viên không chỉ đánh giá học sinh qua điểm số hay khả năng tiếp thu kiến thức chuẩn hóa, mà cần nhìn nhận các em một cách toàn diện, bao gồm năng lực tư duy, cảm xúc, giá trị sống, kỹ năng xã hội và tiềm năng sáng tạo. Giáo viên cần cho phép học sinh nêu lên quan điểm riêng, kể cả những ý kiến trái chiều, giúp các em phát triển năng lực phản biện và tư duy độc lập, biết bảo vệ lập trường trên cơ sở lý lẽ, luận cứ rõ ràng một cách văn minh. Hãy khuyến khích học sinh đặt câu hỏi và tự tin trình bày quan điểm. Ngành giáo dục cần tìm giải pháp cho những câu hỏi, thay vì đặt vấn đề “Chúng ta dạy cái gì?” thì nên đặt ra “Chúng ta dạy để làm gì?”; thay vì “Học sinh học cái gì?” thì nên đặt ra “Học sinh học để làm gì?”. Định hướng giáo dục cần nhất quán, đồng bộ, với triết lý “giáo dục vì con người”.
Lâm Vũ Công Chính

Bình luận (0)