Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

Giáo dục Việt Nam hướng đến một nền giáo dục “khai phóng”

Tạp Chí Giáo Dục

T sau Cách mng tháng Tám năm 1945 đến nay, giáo dc Vit Nam đã tri qua hơn tám thp k hình thành và phát trin, gn lin vi nhng biến đng ln ca đt nưc. T mt nn giáo dc thuc đa lc hu, t l mù ch trên 90%, Đng và Nhà nưc ta đã xây dng nên mt h thng giáo dc thng nht t mm non đến đi hc, phc v mc tiêu “nâng cao dân trí, đào to nhân lc, bi dưng nhân tài”.

Với quyết tâm đổi mới, giáo dục Việt Nam có cơ sở vững chắc để tiếp tục phát triển (ảnh minh họa). Ảnh: H.Trinh

80 năm qua, nền giáo dục Việt Nam luôn đóng vai trò vừa là động lực, nền tảng cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc, vừa đổi mới và hội nhập quốc tế; đóng vai trò chiến lược để nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ thế giới. Dưới đây là những chấm phá về các chặng đường và một số thành tựu của giáo dục Việt Nam 80 năm qua.

Các giai đon phát trin ca giáo dc Vit Nam

Nhìn một cách tổng thể, giáo dục Việt Nam trải qua các thời kỳ sau. Từ năm 1945-1954 là nền giáo dục phục vụ kháng chiến và xóa nạn mù chữ. Ngay sau ngày độc lập, Chính phủ lâm thời đã phát động phong trào Bình dân học vụ, huy động mọi tầng lớp nhân dân tham gia xóa mù chữ. Chỉ sau 9 ngày đất nước được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho ký Sắc lệnh số 17 ngày 8-9-1945, thành lập Nha Bình dân học vụ, phát động toàn dân “diệt giặc dốt”. Với lời kêu gọi giản dị mà đầy tính thức tỉnh: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”, Người đã khơi dậy trong toàn dân một phong trào học chữ mạnh mẽ chưa từng có. Trong hoàn cảnh chiến tranh chống Pháp ác liệt, các lớp học vẫn được duy trì ở vùng tự do, trong hầm, lán, thậm chí giữa chiến khu. Mục tiêu lúc này là “ai cũng biết đọc, biết viết” để phục vụ kháng chiến và xây dựng chính quyền cách mạng. Từ năm 1954-1975, ở hai miền Nam – Bắc có hai hệ thống giáo dục riêng. Miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, giáo dục phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phổ cập tiểu học ở nhiều địa phương, xây dựng các trường chuyên nghiệp, đại học kỹ thuật, sư phạm. Miền Nam dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, giáo dục chịu ảnh hưởng mô hình phương Tây, chú trọng đào tạo nhân lực hành chính và kỹ thuật. Tuy nhiên, sự chia cắt đất nước khiến cơ hội học tập không đồng đều, đặc biệt ở vùng nông thôn và chiến khu. Từ năm 1975-1986, đất nước thống nhất, tuy nhiên gặp nhiều khó khăn do hậu quả chiến tranh. Sau Đại thắng mùa Xuân 1975, hệ thống giáo dục được thống nhất. Tuy nhiên, nền kinh tế bao cấp, điều kiện vật chất thiếu thốn đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy và học. Nhà nước vẫn kiên trì mở rộng mạng lưới trường lớp, chú trọng đào tạo giáo viên, biên soạn sách giáo khoa thống nhất. Từ năm 1986-2000 là giai đoạn đổi mới và mở cửa. Công cuộc Đổi mới 1986 đã mở ra một thời kỳ mới. Giáo dục chuyển từ cơ chế bao cấp sang xã hội hóa, khuyến khích thành lập trường dân lập, tư thục. Chương trình, sách giáo khoa được cải tiến, hệ thống trường đại học, cao đẳng phát triển mạnh. Việt Nam bắt đầu tham gia các chương trình hợp tác giáo dục quốc tế.

Từ năm 2000 đến nay, đất nước ta hội nhập và chuyển đổi. Giáo dục phổ cập tiểu học, tiến tới phổ cập THCS và nâng cao tỷ lệ học THPT. Chương trình giáo dục phổ thông 2018 được triển khai với định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh. Công nghệ thông tin, học trực tuyến và các mô hình giáo dục tiên tiến được áp dụng rộng rãi, đặc biệt sau đại dịch Covid-19. Việt Nam cũng tăng cường hợp tác quốc tế, tham gia các bảng xếp hạng đại học toàn cầu.

ng đến mt nn giáo dc “khai phóng”

Thành tựu giáo dục hiện nay thể hiện ở rất nhiều mặt, khó có thể kể ra hết ở một bài báo. Như, về phổ cập giáo dục, tỷ lệ biết chữ của người trưởng thành đạt trên 97%, phổ cập giáo dục tiểu học và THCS gần như hoàn thành ở hầu hết các tỉnh/thành. Mạng lưới trường lớp rộng khắp từ miền núi, hải đảo đến đô thị, nhiều vùng khó khăn đã có trường bán trú, nội trú. Chất lượng giáo dục quốc tế công nhận: học sinh Việt Nam nhiều lần đạt thành tích cao tại các kỳ thi Olympic quốc tế, PISA của OECD ghi nhận học sinh Việt Nam có thành tích vượt trên mức trung bình thế giới. Giáo dục đại học phát triển: nhiều trường đại học lọt vào nhóm 500-1.000 của bảng xếp hạng thế giới (QS, THE). Ứng dụng công nghệ mạnh mẽ: chuyển đổi số trong giáo dục, sử dụng hệ thống quản lý học tập (LMS), học liệu mở, dạy học trực tuyến trở thành xu hướng.

Giáo dục Việt Nam đang hướng đến đặc điểm của một nền giáo dục “khai phóng”. Theo các nhà nghiên cứu giáo dục, nền giáo dục khai phóng (liberal education) là một triết lý giáo dục hướng tới việc phát triển toàn diện con người, không chỉ đào tạo kiến thức chuyên môn để làm nghề, mà còn bồi dưỡng tư duy độc lập, khả năng phản biện, sáng tạo, hiểu biết văn hóa – xã hội – nhân văn, và ý thức công dân. Hiểu đơn giản, đây là nền giáo dục giúp người học “mở khóa” tiềm năng trí tuệ và nhân cách, để các em trở thành những cá nhân tự do về tư tưởng, tự chủ trong lựa chọn, và linh hoạt thích nghi trước những thay đổi của xã hội. Mục tiêu của nền giáo dục khai phóng là phát triển trí tuệ toàn diện: rèn luyện khả năng phân tích, suy luận, đặt câu hỏi, và tìm ra nhiều góc nhìn. Bồi dưỡng nhân cách: đề cao giá trị nhân văn, tinh thần trách nhiệm, tôn trọng sự khác biệt. Tự học suốt đời: trang bị năng lực để học và thích nghi với những nghề mới, công nghệ mới trong tương lai. Nuôi dưỡng tự do học thuật: khuyến khích tranh luận, phản biện, tìm tòi cái mới. Đặc điểm nổi bật của nền giáo dục khai phóng là đào tạo đa ngành. Học sinh, sinh viên không chỉ học chuyên môn mà còn tiếp cận các lĩnh vực khác như văn học, triết học, khoa học tự nhiên, nghệ thuật, xã hội học… Chú trọng kỹ năng mềm: giao tiếp, làm việc nhóm, tư duy phản biện, sáng tạo. Người học là trung tâm: giảng viên đóng vai trò dẫn dắt, khơi gợi tư duy thay vì áp đặt. Gắn với giá trị tự do: khuyến khích bày tỏ quan điểm, tôn trọng ý kiến đa chiều.

Nếu so sánh đặc điểm giáo dục khai phóng của Việt Nam hiện nay với giáo dục trong thời phong kiến sẽ thấy sự khác biệt rất rõ ràng. Giáo dục thời phong kiến đào tạo con em quan lại thành người quân tử, kẻ sĩ. Đặc trưng nổi bật của giáo dục Việt Nam thời phong kiến là nền giáo dục Nho học. Thời kỳ đầu dựng nước, bên cạnh giáo dục Nho học có sự tồn tại của các loại hình giáo dục Phật giáo và Đạo giáo. Tuy có sự khác nhau nhưng các loại hình giáo dục trên không bài trừ lẫn nhau. Tâm giáo thịnh vượng nhất là thời Lý – Trần, triều đình nhiều lần đứng ra tổ chức kỳ thi Tam giáo bao gồm cả 3 nội dung: Nho – Phật – Đạo. Tuy nhiên, các triều đại phong kiến nối tiếp nhau luôn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống. Vì thế, Nho giáo gần như trở thành hệ thống giáo dục chính thống và tồn tại trong suốt thời kỳ phong kiến. Sách giáo khoa chính của Nho giáo ở bậc cao là Tứ thư, Ngũ kinh và Bắc sử. Phương pháp giáo dục chủ yếu là trí dục và đức dục. Trí dục chủ yếu phương pháp thuộc lòng, dùi mài kinh sử, kinh viện, giáo điều. Đức dục chủ yếu sử dụng phương pháp nêu gương.

Giáo dục Việt Nam trong 80 năm qua đã trải qua nhiều thử thách, nhưng cũng gặt hái không ít thành tựu. Chặng đường phía trước vẫn còn nhiều việc phải làm, như nâng cao chất lượng, thu hẹp khoảng cách vùng miền, hội nhập sâu rộng với thế giới… Tuy nhiên, với truyền thống hiếu học và quyết tâm đổi mới, giáo dục Việt Nam có cơ sở vững chắc để tiếp tục phát triển, đóng góp cho sự thịnh vượng của đất nước.

Trn Ngc Tun

Bình luận (0)