Chủ trương “một chương trình – nhiều bộ sách giáo khoa” được nêu trong các văn bản liên quan đến việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018, quy định tại Nghị quyết 88/2014 của Quốc hội khóa XIII và Luật Giáo dục 2019.

Mục đích của chủ trương này là vừa đảm bảo sự thống nhất toàn quốc về chương trình giáo dục, vừa tạo điều kiện đa dạng hóa tài liệu giảng dạy, tăng tính cạnh tranh nhằm xóa bỏ thế độc quyền, đổi mới và đáp ứng nhu cầu khác nhau của học sinh, nhà trường và giáo viên. Tuy nhiên, Chính phủ vừa ban hành nghị quyết chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 71 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển giáo dục và đào tạo. Trong đó có yêu cầu đảm bảo cung cấp một bộ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc sử dụng từ năm học 2026-2027.
Vì sao nhiều người ủng hộ việc dùng chung một bộ sách thống nhất cả nước?
Khảo sát ý kiến của dư luận trên các trang mạng thông tin, chúng tôi thấy hầu hết các ý kiến bày tỏ sự đồng tình với chủ trương này của Bộ Chính trị và Chính phủ. Các ý kiến đều tập trung vào quan điểm: một bộ sách dùng chung sẽ tiết kiệm được tài chính, dễ tìm mua và dễ dàng, thống nhất cho việc dạy học, thi cử, đánh giá…
Ngoài ra, theo ghi nhận của chúng tôi, chủ trương “một chương trình – nhiều bộ sách giáo khoa” chưa thành công như mong muốn còn xuất phát từ nghịch lý là hầu hết các trường chỉ chọn một bộ sách giáo khoa duy nhất để giảng dạy, khiến mục tiêu ban đầu bị hạn chế, thậm chí bị coi là “phá sản”. Thực tế triển khai cho thấy, ở mỗi trường hầu như chỉ chọn một bộ sách giáo khoa để dạy cho từng môn. Việc học sinh được tiếp xúc với nhiều bộ sách giáo khoa của từng môn như mục tiêu ban đầu hầu như không diễn ra.
Có nhiều nguyên nhân về sự “lệch pha” này. Đó là việc dạy học và công tác quản lý sẽ thuận tiện, đồng bộ hơn khi cả trường cùng dùng chung một bộ sách. Phụ huynh bớt gánh nặng chi phí khi phải mua nhiều bộ sách cho con em. Ở phía chủ động của giáo viên, họ vốn đã chịu áp lực lớn nên ít có điều kiện nghiên cứu, phối hợp nhiều bộ sách cùng lúc. Từ đó dẫn đến hệ lụy nữa là việc kiểm tra, đánh giá vẫn cơ bản dựa trên nội dung của một bộ sách giáo khoa cụ thể đã chọn, khiến cả giáo viên và học sinh không có động lực tiếp cận thêm sách khác.
Vì thế mà chủ trương “một chương trình – nhiều bộ sách giáo khoa” trên thực tế mới chỉ dừng lại ở mức nhiều bộ để chọn một, chứ chưa thực sự tạo ra sự đa dạng trong quá trình học tập. Nhiều bộ sách giáo khoa được biên soạn công phu nhưng lại ít người sử dụng, gây ra sự lãng phí nguồn lực và chất xám xã hội. Đồng thời, điều này còn tiềm ẩn nguy cơ tái lập cơ chế “độc quyền trá hình”, khi một bộ sách được lựa chọn quá phổ biến và lấn át các bộ sách khác.
Làm cách nào để kịp ra bộ sách giáo khoa thống nhất cho năm học tới?
Để trong vòng chỉ một năm mà có thể ra được một bộ sách giáo khoa thống nhất cho năm học 2026-2027 là việc rất khó, nhưng không phải hoàn toàn bất khả thi nếu làm bài bản và khẩn trương. Theo đó, có thể tập trung vào nhóm giải pháp sau đây.
Thứ nhất, cần sớm ban hành ngay các văn bản quy phạm (quyết định, thông tư, quy chế…) để làm cơ sở cho việc ra đời một bộ sách gáo khoa thống nhất. Trong đó cần cụ thể bộ sách giáo khoa thống nhất gồm những bộ môn nào; tiêu chuẩn nội dung, khối lượng kiến thức, chuẩn đầu ra… ra sao; chỉ định cơ quan chủ trì là đơn vị nào (ví dụ: Bộ GD-ĐT hoặc NXB Giáo dục…) chịu trách nhiệm chính…
Thứ hai, nên tận dụng nguồn lực sẵn có, đó là các bộ sách đang lưu hành. Có thể ghép, chỉnh lý từ những bộ sách đã có này. Các bộ sách này cơ bản đã được thẩm định, có thể chọn ra bản tốt nhất làm “xương sống” và chỉnh sửa để thành một bộ thống nhất dựa trên chuẩn của chương trình môn học. Điều này sẽ dễ dàng trong việc sử dụng ngay đội ngũ tác giả, chuyên gia, biên tập, thẩm định từ các bộ sách hiện hành để tránh tuyển chọn mới từ đầu.
Thứ ba, nên rút gọn quy trình thẩm định sách sau khi soạn xong nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Thay vì quy trình thẩm định 2, 3 vòng kéo dài, có thể làm song song vừa viết vừa biên tập, thẩm định theo từng cụm môn. Tận dụng công nghệ số để biên tập và phản biện cho nhanh.
Thứ tư, với khâu thử nghiệm, tập huấn cho giáo viên và chuẩn bị triển khai: ngay khi sách xong bản thảo, nên cho giáo viên trọng điểm đọc góp ý và chỉnh sửa lần cuối. Soạn sẵn tài liệu hướng dẫn, tập huấn trực tuyến cho giáo viên để kịp sử dụng. Kết hợp chuẩn bị phương án in ấn và phát hành song song bản giấy cùng bản điện tử.
Tóm lại, muốn kịp trong một năm thì không thể làm theo quy trình truyền thống “viết – nghiệm thu – thẩm định” kéo dài được, mà phải tận dụng sách giáo khoa hiện có kết hợp huy động đồng thời nhiều nhóm giải pháp. Tuy nhiên, rút ngắn thời gian luôn có nguy cơ ảnh hưởng chất lượng, nên cần song song cơ chế rà soát, chỉnh lý trong quá trình triển khai từ đầu năm đầu tiên. Nhiều giáo viên cũng đề xuất ý kiến là không nên quá vội vàng mà nên cuốn chiếu từng bậc học, xong tiểu học rồi đến THCS và cuối cùng là bậc THPT.
Đã từng có lần hợp nhất các bộ sách giáo khoa trước đây
Sau năm 1975, khi hệ thống giáo dục cả nước thống nhất, Bộ GD-ĐT đã giao cho hai đầu mối lớn là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Trường Đại học Sư phạm TP.HCM biên soạn bộ sách giáo khoa để phục vụ riêng cho hai vùng miền (miền Bắc và miền Nam). Theo đó, thầy trò miền Bắc sử dụng bộ sách do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chủ trì biên soạn và thầy trò miền Nam sử dụng bộ sách do Trường Đại học Sư phạm TP.HCM chủ trì biên soạn. Hai bộ sách này có một số khác biệt về nội dung, cách diễn đạt, ví dụ minh họa, phương ngữ… để phù hợp văn hóa vùng miền.
Đến khoảng cuối thập niên 1980, đầu 1990, khi cả nước triển khai chương trình giáo dục thống nhất, hai bộ sách này được hợp chỉnh (chỉnh sửa, hợp nhất) thành một bộ sách giáo khoa thống nhất áp dụng trên toàn quốc, làm nền cho chương trình phổ thông cải cách năm 1981 và sau đó là chương trình hợp nhất vào năm 2000.
Lý do để hợp nhất khi ấy là, khi giao lưu, chuyển vùng, học sinh và giáo viên di chuyển nhiều (từ vùng này sang vùng khác), gây ra khó khăn do “hai chuẩn” trong dạy và học của hai miền. Trong khi đó, chính sách giáo dục thống nhất cả nước đòi hỏi cần một bộ sách giáo khoa duy nhất để bảo đảm chất lượng và đánh giá đồng đều, chuẩn bị cho việc triển khai chương trình cải cách phổ thông năm 1981 và sau đó là năm 1990.
Trần Nhân Trung

Bình luận (0)