Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Thành ngữ – tục ngữ chuyển nghĩa

Tạp Chí Giáo Dục

Trong giao tiếp hằng ngày, mọi người thường hay sử dụng chêm xen các thành ngữ – tục ngữ vào phát ngôn với mục đích giúp cho lời nói trở nên sinh động, hàm súc, giàu hình tượng và biểu cảm. Chúng còn giúp người nói truyền đạt kinh nghiệm, bài học quý báu một cách ngắn gọn, hiệu quả, đồng thời làm phong phú thêm vốn từ vựng, văn hóa, gây ấn tượng và thu hút người nghe.

Sử dụng thành ngữ – tục ngữ phù hợp trong giao tiếp thể hiện ý thức trân trọng và gìn giữ nét đẹp bản sắc văn hóa, truyền thống của dân tộc ta (ảnh minh họa). Ảnh: Y.H

Bởi, thay vì phải giải thích dài dòng, thành ngữ – tục ngữ cho phép diễn tả một ý niệm phức tạp bằng những tổ hợp từ cô đúc, diễn đạt ý nghĩa sâu sắc, tinh tế… Tuy nhiên, một số thành ngữ – tục ngữ hiện nay đang được sử dụng với nghĩa mới – nghĩa chuyển, còn nghĩa gốc ban đầu đã bị mai một.

Cưỡi ngựa, xem hoa/cưỡi ngựa xem hoa

Theo nhiều nhà nghiên cứu, thành ngữ “cưỡi ngựa xem hoa” là bản dịch của thành ngữ tiếng Hán “Tẩu mã quan hoa” (走馬觀花), dịch sát nghĩa là “đi ngựa ngắm hoa”, xuất phát từ hai câu cuối trong bài thơ chữ Hán “Đăng khoa hậu” (登科後: Sau khi thi đỗ) của Mạnh Giao (751-814), một nhà thơ nổi tiếng đời nhà Đường: “Xuân phong đắc ý mã đề tật, Nhất nhật khán tận Trường An hoa”, dịch nghĩa “Vui sướng lên lưng ngựa phóng đi trong gió xuân/ Ngắm nhìn tất cả hoa ở Trường An trong một ngày”. Hai câu thơ diễn tả tâm trạng hào hứng, vui sướng của tác giả sau khi thi đỗ, ông đã cùng mọi người phóng ngựa ngắm cảnh hoa xuân đua nở ở kinh đô Trường An. Vậy là, theo nghĩa gốc, nội dung thành ngữ miêu tả hình ảnh người cưỡi ngựa phóng qua chỉ nhìn lướt các bông hoa, chứ không dừng lại để ngắm nghía hay cảm nhận tường tận vẻ đẹp của hoa kiểng.

Theo nguồn tài liệu khác, thành ngữ này xuất phát từ điển tích Trung Quốc về một bà mối. Thuở ấy có chàng trai tên là Quý Lương một chân bị thọt và cô gái Diệp Thanh bị lé (lác) mắt. Hai người đều đã đến tuổi nên gia thất, nhưng mãi mà duyên chẳng đến, bèn cậy nhờ người mối mai kết nối. Bà mối nọ muốn ghép đôi cho họ nên vợ, nên chồng bèn nghĩ ra một cách nhất cử lưỡng tiện, thu xếp một buổi đẹp trời nọ, bố trí cho Quý Lương cưỡi trên lưng ngựa, thong thả đi qua vườn hồng nhà Diệp Thanh, đồng thời sắp xếp cho Diệp Thanh đứng ven rào trong vườn, e lệ cúi mặt ngắm mấy bông hoa hồng để hai người có cơ hội trông thấy nhau.

Sau buổi gặp gỡ “ngẫu nhiên” ấy hai người rất hài lòng về nhau và hôn lễ được cử hành. Đến sau ngày thành hôn, lúc bấy giờ hai người mới biết được những khiếm khuyết của nhau, nhưng họ đều chấp nhận, sống với nhau đến răng long đầu bạc. Ở đây cần ghi nhận sự nhanh trí của bà mối, đã lựa theo tình cảnh mà sắp xếp phù hợp, hoàn thành tốt đẹp công việc. Thành ngữ “cưỡi ngựa xem hoa” còn có ý nhắc mọi người trước khi quyết định hoặc kết luận một vấn đề gì đó cần phải xem xét tường tận, cụ thể.

Ngày nay, thành ngữ “cưỡi ngựa xem hoa” dùng để chỉ người không tìm hiểu kỹ càng, làm việc qua loa, đại khái chứ không chú tâm vào chi tiết của vấn đề, mà lẽ ra cần phải làm kỹ lưỡng, cẩn thận hơn.

Quẹt mỏ như gà

Nghĩa gốc của thành ngữ “quẹt mỏ như gà” xuất phát từ tập tính sinh học của loài gia cầm gà/vịt thường quẹt mỏ lên bộ lông của mình. Bởi vì, phao câu của chúng có một nốt nhỏ có thể tiết ra chất dầu, chúng dùng mỏ để quẹt lấy chất dầu này bôi lên lông của mình cho bộ lông luôn bóng mượt, không bị bết dính, đồng thời giúp lớp lông không bị thấm ướt khi tiếp xúc với nước hay khi gặp sương, mưa để bảo vệ cơ thể. Như vậy nghĩa đen của thành ngữ chỉ nhằm phản ánh một tập tính tự nhiên có ích của gia cầm. Nhưng hiện nay, trong tâm thức dân gian người Việt, thành ngữ này hiện chỉ được hiểu theo nghĩa bóng, dựa vào hình ảnh gia cầm sau khi ăn xong thường quẹt cái mỏ của mình vào đâu đó để làm sạch mà đề cập đến những kẻ vô ơn bạc nghĩa, không biết tri ân người đã giúp đỡ mình, thậm chí còn phản bội lại người làm ơn.

Thành ngữ thể hiện sự phê phán đối với hành vi vô tình, vong ân trong các mối quan hệ xã hội, nhấn mạnh sự đối lập giữa lòng tốt của người cho và sự bạc bẽo của người nhận, ẩn dụ cho sự bội bạc, vô ơn.

Bắt cá hai tay

Nghĩa đen của thành ngữ là phản ánh kinh nghiệm hành động thực tế cần phải dùng cả hai tay để (săn) bắt cá. Trong tình huống này, thành ngữ mang ý nghĩa tích cực, ám chỉ sự khéo léo, chắc chắn trong việc bắt cá. Tuy nhiên, hiện tại thành ngữ này duy chỉ được vận dụng với nghĩa bóng phê phán hiện tượng tiêu cực, nên nhiều người vẫn thường thắc mắc: bắt con cá dưới nước thì phải bắt bằng cả hai tay mới chắc chắn, chứ chả nhẽ chỉ bắt bằng một tay thì cá dễ bị sẩy đi mất làm sao?

Có ý kiến khác hiểu rằng thành ngữ này phê phán chuyện cá cược. Thông thường khi đánh cược, người chơi chỉ chọn đặt cược (bắt cá) một bên, kèo trên hoặc kèo dưới. Ở đây lại có người “bắt cá hai tay”, tức đặt cược cả hai bên để bảo đảm xảy ra kết quả nào mình cũng được hưởng lợi nhiều/ít, chứ không hoàn toàn bị thiệt. Từ hành động “cá cược” đó đã dẫn đến suy diễn thêm nghĩa bóng chỉ hành động lăng nhăng, không chung thủy trong tình yêu, hôn nhân; lừa dối, yêu đương nhiều người cùng lúc, gây đau khổ, tổn thương cho những người liên quan.

Còn nước còn tát

Câu tục ngữ “còn nước còn tát” vốn mang ý nghĩa tích cực về việc khi mùa vụ gặp hạn hán, thiếu nước để canh tác, nông dân đã tận dụng nguồn nước quý giá cho sản xuất nông nghiệp. Nó thể hiện kinh nghiệm thực tế của nông dân là khi nào còn nước, dù là rất ít, họ cũng phải tranh thủ vét/tát, đưa nước vào ruộng để cứu lúa. Câu tục ngữ này đề cao kinh nghiệm nông nghiệp – đặc biệt là nghề trồng lúa nước ở Việt Nam – với sự linh hoạt và khả năng ứng phó của người nông dân trước tác động bất lợi của thiên nhiên để đảm bảo đời sống.

Tuy nhiên hiện nay, thực tế hầu như tất cả mọi người đều sử dụng “còn nước còn tát” với nghĩa không bỏ cuộc khi vẫn còn hy vọng, dù chỉ là mong manh nhất trong mọi trường hợp. Tục ngữ này hiện chủ yếu chỉ được dùng để khuyên nhủ mọi người không nên nản lòng, hãy tận dụng mọi cơ hội có thể, và không ngừng tìm kiếm giải pháp cho đến khi thực sự không còn bất cứ hy vọng nào nữa – nhất là trong việc cứu chữa bệnh nhân – khi người bệnh vẫn còn cơ hội hay hy vọng dù nhỏ nhoi, thì thân nhân vẫn phải cố gắng, kiên trì tìm mọi biện pháp để cứu mạng người bệnh, thay vì buông xuôi, chấp nhận. Mở rộng ra, “còn nước còn tát” đã mượn hình ảnh người nông dân đang ra sức tát những gàu nước ít ỏi để cứu ruộng lúa khô cạn để ẩn dụ cho việc con người cần nỗ lực giải quyết các vấn đề đến cùng, dù cho hầu như không còn chút hy vọng nào.

Chuyển nghĩa là hiện tượng ngôn ngữ phổ quát, tồn tại trong mọi sinh ngữ trên thế giới; nó góp phần làm giàu đẹp thêm từ vựng và phong phú – tinh tế hóa nội hàm ngữ nghĩa của các đơn vị từ. Trong quá trình chuyển nghĩa mang tính lịch đại đó, nghĩa gốc có thể dần bị mai một/triệt tiêu và nghĩa mới chiếm lĩnh, trở nên phổ dụng, mà các trường hợp vừa được khảo sát trên là những minh họa khá thuyết phục.

Thành ngữ – tục ngữ với tính cô đúc, hàm súc tự thân của nó dễ dàng giúp người giao tiếp kết nối với nhau, thấu hiểu nhau hơn, tạo cảm giác thân thuộc và gần gũi. Cạnh đó, việc hiểu tường tận và sử dụng thành ngữ – tục ngữ phù hợp trong giao tiếp còn thể hiện ý thức trân trọng và gìn giữ nét đẹp bản sắc văn hóa, truyền thống lâu đời của dân tộc ta.

Đ Thành Dương

 

Bình luận (0)