Y tế - Văn hóaVăn hóa nghệ thuật

Ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Tuân

Tạp Chí Giáo Dục

Nguyn Tuân (1910-1987), mt trong nhng nhà văn ln ca văn hc Vit Nam hin đi, đưc mnh danh là “ngưi ngh sĩ ca ngôn t”. Ngôn ng ngh thut trong tác phm ca ông không ch là phương tin truyn ti ni dung mà còn là mt yếu t quan trng, góp phn to nên du n đc đáo, tài hoa và đm cht cá nhân.

Khi học và đọc các tác phẩm như: Một chuyến đi, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương, Chiếc lư đồng mắt cua…, học sinh cần chú ý đến những đặc điểm sâu sắc của ngôn ngữ nghệ thuật Nguyễn Tuân để hiểu rõ giá trị và sức hút trong sáng tác của ông.

Trong một bài giảng bồi dưỡng người viết trẻ, Nguyễn Tuân đã nêu quan điểm về nghề: “Nghề văn là nghề của chữ… Nó là cái nghề dùng chữ nghĩa mà “sinh sự”…”. Theo ông, đánh giá một nhà văn, đúng về mặt chuyên môn nghề nghiệp mà bàn, thì giá trị của người đó “là những công đức lập ngôn”, là ở chỗ ông ta “đã mở mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng nói được tới mức nào, và đã góp phần sáng tạo của mình vào ngôn ngữ Việt Nam như thế nào”. Điều này có nghĩa rằng, với Nguyễn Tuân, nhà văn phải cực kỳ chú trọng việc chọn lựa con chữ để diễn đạt điều mình muốn nói. Và chính ông là người luôn thể hiện điều này rất rõ nét, đến độ chúng ta có thể cảm nhận rằng ở nhà văn, mỗi chữ, mỗi từ đều được ông cân nhắc rất thận trọng.

Đọc Nguyễn Tuân, thấy rõ ở ông một ý thức trách nhiệm hoàn toàn tự giác và một tình yêu sâu đậm hết sức nhạy cảm với những gì liên quan đến ngôn ngữ, đặc biệt là đến tiếng mẹ đẻ. Nguyễn Tuân không phải là nhà ngôn ngữ học, không phải là người lập thuyết về ngôn ngữ. Ông là nhà thực hành tài hoa và sáng tạo với một ý thức rất cao về vai trò, trách nhiệm của nhà văn với ngôn ngữ mẹ đẻ, đúng như ông tự nhận trong mục chuyên môn của bản khai lý lịch ở Hội Nhà văn Việt Nam: Chuyên viên tiếng Việt!

Ngôn ngữ trong các tác phẩm của Nguyễn Tuân mang đậm chất thơ, giàu hình ảnh và cảm xúc, thường được xây dựng bằng những câu văn dài, nhịp nhàng, giàu nhạc điệu. Ông sử dụng các biện pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hóa, so sánh một cách tinh tế để khắc họa thiên nhiên và con người. Chẳng hạn, trong “Người lái đò sông Đà”, ông miêu tả con sông Đà như một “hung thần” dữ dội nhưng cũng mang vẻ đẹp “trữ tình, như một áng tóc dài”. Hình ảnh này không chỉ sống động mà còn gợi lên sự hùng vĩ, bí ẩn của thiên nhiên Tây Bắc. Ông đã để câu chữ thể hiện không chỉ màu sắc tĩnh tại mà cả triển vọng đang diễn biến theo chiều hướng tươi đẹp của một con sông, một vùng đất, một tâm trạng: “Hỡi những bạn đò người Thái (…) từ nay sông Đà càng ngày càng xanh ve mãi lên một niềm hoài vọng!”. Học sinh cần chú ý đến cách Nguyễn Tuân biến những sự vật, hiện tượng quen thuộc thành những biểu tượng nghệ thuật, khơi gợi cảm xúc mạnh mẽ. Để hiểu sâu hơn, hãy phân tích từng hình ảnh, đặt chúng trong bối cảnh tác phẩm để thấy được ý nghĩa ẩn sau.

Một đặc trưng nổi bật trong ngôn ngữ của Nguyễn Tuân là việc sử dụng từ Hán Việt một cách điêu luyện, tạo nên sự trang trọng, cổ kính nhưng không khô khan. Trong “Vang bóng một thời”, ông dùng từ Hán Việt để tái hiện không khí hoài cổ, như khi miêu tả thú chơi chữ, chơi đèn, hay trà đạo của người xưa. Ví dụ, trong “Chữ người tử tù”, nhân vật Huấn Cao được khắc họa qua những từ như “thiên lương”, “khí phách”, gợi lên vẻ đẹp cao quý, thanh tao. Đồng thời, Nguyễn Tuân kết hợp từ Hán Việt với tiếng Việt hiện đại, dân dã để tạo sự gần gũi, sinh động. Như trong “Bữa rượu máu”, có đoạn: “Người ở trên mặt thành hát đến đâu thì tiếng những thân cây chuối đổ xuống mặt đất tường thành lại kêu roạt roạt đến đấy. Bọn người đàn bà hái dâu ngừng tay bứt lá, nghiêng đầu lắng nghe kỹ. Cái bài hát năm mươi tư chữ nghe như bài sai của thầy phù thủy, đã hát đi hát lại đến mấy lần. Cứ xong mỗi câu thì lại có một tiếng roạt”. Cái tài của nhà văn không chỉ tạo nên không khí huyền bí mà còn gợi cho người đọc cảm nhận rất cụ thể qua từ “roạt roạt”, vốn rất hiếm khi đọc được ở đâu đó. Điều này thể hiện sự tài hoa trong cách dùng từ, vừa trang nghiêm vừa linh hoạt. Học sinh nên ghi chú những từ Hán Việt nổi bật, tra cứu nghĩa và phân tích vai trò của chúng trong việc tạo không khí tác phẩm.

Nguyn Tuân là mt nhà văn ni tiếng, đưc xem là bc thy trong sáng tác và s dng tiếng Vit (s trưng v tùy bút và ký). Trong quá trình sáng tác văn chương, Nguyn Tuân còn s dng mt s bút danh như Nht Lang, Thanh Thy, Ngt Lôi Qut, Ân Ngũ Tuyên, Tun Tha Sc, Thanh Hà, Ngt Lôi Nht. Năm 1996, ông đưc truy tng Gii thưng H Chí Minh v văn hc ngh thut…

Bên cạnh đó, Nguyễn Tuân là nhà văn của cái tôi cá nhân mạnh mẽ, và điều này được phản ánh rõ trong ngôn ngữ. Ông không chỉ kể chuyện mà còn thể hiện thái độ, cảm xúc của mình qua cách viết. Nói về sông Đà, ông miêu tả thiên nhiên không chỉ như một người quan sát mà còn như một nghệ sĩ say mê, tôn thờ cái đẹp. Ngôn ngữ của ông vì thế mang đậm dấu ấn cá nhân, với những câu văn dài, phức tạp, đầy chất suy tư và triết lý. Ví dụ, khi viết về người lái đò, ông không chỉ miêu tả hành động mà còn phân tích tâm hồn, tài năng của con người lao động, biến họ thành những “nghệ sĩ trong nghệ thuật vượt thác”. Trong “Những chiếc ấm đất”, Nguyễn Tuân viết: “Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí bốc từ mặt đất. Giống như vệt khói nhờ, nắng vờn qua những màu xanh bóng loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm. Đứng trong cổng chùa từ bề cao nhìn xuống cái thấp dưới chân mình, nhà sư già nheo nheo cặp mắt, nhìn cái nắng sáng lòa. Bọn người xin nước chỉ còn là mấy cái chấm đen, mỗi chuyển động lại làm tung lại phía sau mình một chùm cát bụi mờ mờ…”. Học sinh có thể đọc chậm đoạn văn này để nhận ra rằng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân không chỉ nhằm mô tả mà còn là cách ông gửi gắm triết lý sống: trân trọng cái đẹp, chống lại sự tầm thường. Và một điều độc đáo nữa, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân còn đặc biệt ở tính nhạc điệu, được tạo nên bởi nhịp điệu câu văn và cách phối âm. Ông thường viết những câu văn dài, nhưng không rườm rà mà có nhịp điệu uyển chuyển, cân đối. Trong “Người lái đò sông Đà”, nhịp văn khi thì dồn dập như dòng thác dữ, khi thì chậm rãi, trữ tình như khúc sông êm đềm. Sự thay đổi nhịp điệu này không chỉ làm tăng sức gợi mà còn phù hợp với nội dung miêu tả. Học sinh nên đọc to hoặc phân tích nhịp điệu của các đoạn văn để cảm nhận rõ hơn sự tinh tế này, từ đó thấy được cách Nguyễn Tuân dùng ngôn ngữ như một công cụ nghệ thuật để “vẽ” nên bức tranh văn học.

Như vậy, để hiểu và cảm nhận ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Tuân, học sinh cần đọc chậm, chú ý từng câu, từng từ, đặc biệt là các biện pháp tu từ và từ Hán Việt. Cần ghi chép những đoạn văn tiêu biểu, phân tích ý nghĩa và cảm xúc mà chúng khơi gợi. Thảo luận nhóm hoặc liên hệ với các tác phẩm văn học khác cũng là cách để nhận ra sự độc đáo của ông. Quan trọng hơn, học sinh nên liên hệ với thực tế: ngôn ngữ của Nguyễn Tuân dạy chúng ta cách trân trọng vẻ đẹp của tiếng Việt, khuyến khích sử dụng ngôn ngữ một cách sáng tạo, có hồn trong giao tiếp và viết lách. Đương nhiên, sáng tạo nhưng không phải tùy tiện, vô nguyên tắc!

Có thể nói, ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn Tuân là một kho tàng quý giá, kết tinh tài năng, tâm huyết và phong cách nghệ sĩ của ông. Đó là sự hòa quyện giữa hình ảnh, nhạc điệu, triết lý và cái tôi cá nhân, tạo nên sức hút đặc biệt trong từng tác phẩm. Học sinh khi tiếp cận cần chú ý đến sự tinh tế trong cách dùng từ, nhịp điệu và ý nghĩa sâu xa, từ đó không chỉ hiểu sâu hơn về văn học mà còn rèn luyện khả năng cảm thụ cái đẹp, trân trọng tiếng mẹ đẻ.

Trúc Giang

Bình luận (0)