Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 222/2025/NĐ-CP ngày 8-8-2025 quy định việc dạy và học bằng tiếng nước ngoài trong cơ sở giáo dục, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25-9-2025. Đây là cơ sở pháp lý cho các hoạt động giáo dục liên quan đến vấn đề này.

Nghị định này bao gồm các quy định chung, điều kiện tổ chức dạy học, thẩm quyền, hồ sơ, thủ tục phê duyệt và tổ chức thực hiện dạy học bằng tiếng nước ngoài tại các cơ sở giáo dục phổ thông, cơ sở giáo dục thường xuyên, cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở giáo dục đại học. Ở góc độ cá nhân, tôi có đôi điều suy ngẫm về những nội dung trong nghị định này.
Đầu tiên là những quy định về năng lực ngoại ngữ của giáo viên. Đối với các cơ sở giáo dục thường xuyên, giáo dục nghề nghiệp hay giáo dục đại học, những quy định về chuẩn ngoại ngữ có thể đáp ứng được với các chức danh nghề nghiệp tương ứng khi tuyển dụng, nhưng đối với các cơ sở giáo dục phổ thông có thể gặp khó bởi những quy định sau: Giáo viên tiểu học, trung học cơ sở phải có năng lực ngoại ngữ tối thiểu bậc 4, giáo viên trung học phổ thông phải có năng lực tối thiểu bậc 5 theo Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam hoặc tương đương. Cụ thể, bậc 4 là trình độ trung cấp tương đương với cấp độ B2, bậc 5 trình độ cao cấp tương đương với cấp độ C1 với những nội dung miêu tả cụ thể. Theo đó, với bậc 4 – B2 là: Có thể hiểu ý chính của một văn bản phức tạp về các chủ đề cụ thể và trừu tượng, kể cả những trao đổi kỹ thuật thuộc lĩnh vực chuyên môn của bản thân. Có thể giao tiếp ở mức độ trôi chảy, tự nhiên với người bản ngữ. Ngoài ra, có thể viết được các văn bản rõ ràng, chi tiết với nhiều chủ đề khác nhau và có thể giải thích quan điểm của mình về một vấn đề, nêu ra được những ưu điểm, nhược điểm của các phương án lựa chọn khác nhau. Còn với bậc 5 – C1 là: Có thể hiểu và nhận biết được hàm ý của các văn bản dài với phạm vi rộng. Có thể diễn đạt trôi chảy, tức thì, không gặp khó khăn trong việc tìm từ ngữ diễn đạt. Có thể sử dụng ngôn ngữ linh hoạt và hiệu quả phục vụ các mục đích xã hội, học thuật và chuyên môn. Có thể viết rõ ràng, chặt chẽ, chi tiết về các chủ đề phức tạp, thể hiện được khả năng tổ chức văn bản, sử dụng tốt từ ngữ nối câu và các công cụ liên kết (Trích từ Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24-1-2014).
Công bằng mà nói, việc đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ theo quy định của Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT hay tương đương theo khung tham chiếu chung châu Âu – CEFR với những giáo viên không chuyên là một rào cản thực sự của không ít thầy cô tại các cơ sở giáo dục phổ thông.
Với việc dạy học bằng tiếng nước ngoài, giáo viên đạt được chuẩn ngoại ngữ theo quy định chỉ là đảm bảo tính pháp lý, bởi có một sự khác biệt rất lớn giữa việc biết một ngoại ngữ và hiểu một ngoại ngữ. Một người học ngoại ngữ sẽ có một khoảng thời gian nhất định để đạt được cấp độ phù hợp với trình độ của mình. Việc có được những chứng chỉ, bằng cấp xác định trình độ ngoại ngữ để phục vụ cho điều kiện tuyển dụng của nhu cầu công việc. Tất cả chỉ dừng ở mức độ là biết ngoại ngữ. Có những người đạt được điểm số cao trong các kỳ thi hay có được chứng chỉ ngoại ngữ theo yêu cầu tuyển dụng nhưng lại hạn chế trong việc sử dụng ngoại ngữ cho công việc hàng ngày. Những giáo viên giảng dạy đạt năng lực ngoại ngữ theo quy định có thể chưa truyền tải được đúng yêu cầu cần đạt theo chuẩn kiến thức chương trình, bởi việc thổi hồn vào bài giảng không đơn thuần ở góc độ kiến thức chuyên môn mà còn là kỹ năng giao tiếp để hiểu nhau giữa thầy và trò. Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa ngôn ngữ mình học được với ngôn ngữ tự nhiên theo đúng chất sinh ngữ – ngôn ngữ gần gũi với đời sống con người và giúp con người hiểu nhau hơn đó thực sự là những khó khăn mà những giáo viên dạy học bằng tiếng nước ngoài cần phải vượt qua. Trong cùng một kiến thức nền, người học có thể nhớ đến những người thầy truyền cảm hứng hơn là những người thầy truyền thụ kiến thức.

Một vấn đề nữa là môi trường sử dụng ngoại ngữ rất quan trọng, phải trau dồi hàng ngày để ngôn ngữ thẩm thấu dần một cách tự nhiên, từ đó đi vào cuộc sống và công việc một cách hiệu quả, thiết thực. Lấy ví dụ, chúng ta có thể tổ chức những workshop hoặc câu lạc bộ trong nhà trường giống như một số trường đang áp dụng hiện nay rất hiệu quả để người dạy và người học tự trau dồi vốn ngoại ngữ của mình. Bên cạnh đó, phát triển văn hóa đọc với hình thức song ngữ để người dạy và người học tự trau dồi, thẩm thấu kỹ năng và kiến thức thông qua việc đọc sách của mình.
Về phần đội ngũ giáo viên, hiện nay nhiều cơ sở giáo dục trọng điểm đã và đang thực hiện kế hoạch bồi dưỡng nguồn nhân lực phục vụ chủ trương dạy và học bằng tiếng nước ngoài. Điều đầu tiên là giáo viên phải đáp ứng được chuẩn ngoại ngữ theo quy định, sau đó tổ chức tập huấn về phương pháp giảng dạy theo đặc thù bộ môn và cấp chứng nhận để làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chủ trương này.
Về góc độ chuyên môn, những lớp tập huấn nên chú trọng đến việc sử dụng ngoại ngữ cho giáo viên trong quá trình truyền tải kiến thức, hay nói cách khác là thời gian thực hành trực tiếp tại lớp học phải được phân bổ một cách hợp lý, để giáo viên thực sự tự tin và lan tỏa kiến thức, kỹ năng đến người học. Đó là những tiêu chí mà những giáo viên dạy học bằng tiếng nước ngoài cần phải đặt ra khi tham gia lớp tập huấn.
Chủ trương dạy học bằng tiếng nước ngoài là một hướng đi đúng đắn trong lộ trình nâng chất việc dạy và học ngoại ngữ tại Việt Nam. Tuy nhiên, thống nhất quan điểm, nội dung, phương pháp dạy học và những sự hỗ trợ cần thiết để thực hiện mục tiêu giáo dục này là những vấn đề mà khi thực hiện đề án các cơ sở giáo dục, đặc biệt là giáo dục phổ thông cần quan tâm và cụ thể hóa hơn để tạo được sự thuận lợi cho giáo viên tham gia chương trình.
Lê Tấn Thời

Bình luận (0)