Hiện nay có ba bộ sách giáo khoa (SGK) Tiếng Việt – Ngữ văn đang được lưu hành là Chân trời sáng tạo, Cánh diều và Kết nối tri thức với cuộc sống. Tôi cho rằng không thể lấy bộ sách này mà bỏ bộ sách kia được, vì về mặt khoa học và thực tiễn, cả ba bộ SGK đều đã được Hội đồng thẩm định quốc gia thông qua, Bộ GD-ĐT công nhận đủ tiêu chuẩn phát hành trong nhà trường.

Mỗi bộ sách có tư tưởng sư phạm, cấu trúc bài học khác nhau và mỗi bộ đều có ưu, nhược điểm riêng.
Theo tôi, để đáp ứng yêu cầu của Nghị quyết 71, Bộ GD-ĐT cần đứng ra tổ chức biên soạn một bộ SGK thống nhất, dù sẽ gặp nhiều khó khăn (tác giả, kinh phí, thời gian…). Nếu muốn có bộ SGK chung vào năm học 2026-2027, đủ cho cả 12 lớp, tôi nghĩ chỉ có cách là mỗi môn học chọn và ghép sách theo cấp học hiện có thành bộ sách chung. Cách này khả thi hơn cả, vì tất cả các bộ sách đều dựa vào chương trình, nhưng mỗi cấp học có tính độc lập khá cao nên có thể lấy sách của ba bộ ở ba cấp ghép lại thành một bộ mà không sợ mâu thuẫn hay trùng lặp gì. Nếu theo hướng này, chỉ có thể ghép SGK mỗi môn cả cấp, không ghép theo lớp hay các chương/phần được. Thí dụ, với môn ngữ văn, có thể lấy sách Tiếng Việt của bộ A, sách Ngữ văn THCS của bộ B và sách Ngữ văn THPT của bộ C. Sách của ba bộ đều đã được Bộ GD-ĐT phê duyệt, đã được thực hiện một vòng, chỉ cần điều chỉnh lại một vài chỗ cần thiết, làm và in lại bìa mới… Chưa kể, không mất nhiều công sức trong việc bồi dưỡng; cũng không mất kinh phí biên soạn mới, tận dụng được các tài nguyên hiện có.
Về mặt triết lý, tư tưởng, cấu trúc, người ta mong đợi bộ sách này phải vượt lên ba bộ sách trước đó vì được biên soạn sau, lại do Bộ GD-ĐT đứng ra làm, nên chắc chắn yêu cầu sẽ cao hơn. Tuy nhiên, như đã nêu ở trên, với bối cảnh mới, để có bộ SGK chung theo cách ghép các cấp của ba bộ hiện hành, thì khả thi và khả dĩ hơn.
Mặc dù vậy, điều quan trọng vẫn phải phân biệt chương trình và SGK. Chương trình là pháp lệnh, là yêu cầu bắt buộc thống nhất, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để tổ chức dạy học và kiểm tra đánh giá. SGK (dù chỉ một bộ) cũng chỉ là học liệu, nhưng phải tránh tình trạng đánh đồng chương trình với SGK. Tôi rất thích câu thơ của Tố Hữu: “Trăm đường, một hướng, nở muôn hoa”. Một hướng là mục tiêu chương trình, còn trăm đường là phương tiện để đạt mục tiêu ấy.
Nghiên cứu lịch sử dạy văn trong nhà trường từ thời phong kiến đến nay, tôi thấy mục tiêu dạy văn luôn có hai sứ mệnh. Thứ nhất là dạy người ta biết đọc, biết viết – công cụ để học tập và trưởng thành. Thứ hai là bồi dưỡng tình cảm, tư tưởng: học văn là học làm người, biết lẽ phải, cái đẹp, nuôi dưỡng lý tưởng và phát triển nhân cách…
Thời nào môn văn cũng rất quan trọng trong việc hình thành năng lực và phẩm chất con người. Chỉ khác là trong kỷ nguyên mới, cách giảng dạy phải thay đổi. Đơn cử, khi trí tuệ nhân tạo (AI) xuất hiện, nếu dạy theo kiểu cũ thì khó đáp ứng được nữa. Yêu cầu đột phá trong giáo dục sắp tới vẫn phải đặt trọng tâm ở đổi mới phương pháp dạy học, chứ không chỉ ở nội dung SGK.

| Dù có một bộ sách, giáo viên cũng cần tìm hiểu kỹ hơn Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Chú trọng mục tiêu hình thành năng lực, dạy học sinh phương pháp đọc, cách tiếp cận tác phẩm. Nếu không biết cách đọc thì không thể khám phá được cái hay, cái đẹp. |
Dù có một bộ sách, giáo viên cũng cần tìm hiểu kỹ hơn Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Chú trọng mục tiêu hình thành năng lực, dạy học sinh phương pháp đọc, cách tiếp cận tác phẩm. Nếu không biết cách đọc thì không thể khám phá được cái hay, cái đẹp.
Việc triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018 cũng còn nhiều hạn chế: bồi dưỡng giáo viên chưa tốt, nhiều người chưa hiểu hoặc chưa tìm hiểu kỹ chương trình và SGK mới, vẫn có giáo viên dạy máy móc. Thêm vào đó, chất lượng đào tạo ở các trường sư phạm cũng cần xem xét. Trước đây, giảng văn có cái hay, nhưng thầy cô toàn đọc hộ, cảm thụ hộ, phân tích hộ; học sinh chỉ nghe, không vận dụng được. Đổi mới hôm nay là để khắc phục hạn chế đó.
Quan điểm giáo dục hiện nay là lấy học sinh làm trung tâm, nghĩa là từ xây dựng chương trình, biên soạn SGK đến cách dạy, cách học đều phải xuất phát từ học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm phải bắt đầu từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh để đề ra nội dung, phương pháp, cách thức đánh giá phù hợp, hiệu quả và với môn ngữ văn thể hiện trong việc lựa chọn văn bản – tác phẩm văn học và cách thức dạy học. Điều khiến tôi băn khoăn là giữa chủ trương, đường lối với thực tiễn triển khai vẫn còn một khoảng cách đáng kể. Chủ trương thì rất đúng đắn, nhưng quá trình thực hiện nhiều khi chưa tốt, nên kết quả không đạt như mong muốn. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là coi nhẹ vai trò người thầy. Người thầy vẫn đặc biệt quan trọng. Trên thực tế, vấn đề mấu chốt nằm ở khâu tổ chức thực hiện sao cho thật sự hiệu quả, nếu triển khai thiếu đồng bộ, chắp vá thì khó đạt được mục tiêu cuối cùng. Trong đó, yếu tố con người vẫn mang tính quyết định. Giáo dục cũng vậy, chỉ khi có những con người đủ năng lực mới có thể biến các tư tưởng lớn thành hiện thực. Vì thế, yếu tố then chốt nhất là nhận thức và hành động của đội ngũ giáo viên phải thay đổi. Tư tưởng có thể đã mang tính đột phá, nhưng nếu giáo viên không đổi mới thì việc triển khai vẫn rất khó khăn.
PGS.TS Đỗ Ngọc Thống

Bình luận (0)