Y tế - Văn hóaVăn hóa nghệ thuật

Giá trị các thành ngữ Hán Việt về hôn nhân

Tạp Chí Giáo Dục

Hôn nhân là vic nam n chính thc ly nhau làm v chng, là s kết hp chính thc gia hai ngưi (thưng là nam và n) thông qua nghi li hi, nhm thiết lp mt mi quan h gia đình đưc xã hi tha nhn.

Tuy có nguồn gốc xa xưa nhưng thành ngữ Hán Việt về hôn nhân luôn có giá trị lịch sử và văn hóa. Trong ảnh: Tiết học môn văn của học sinh THPT. Ảnh: T.L

“Hôn nhân” là một từ Hán Việt, chỉ sự kết hợp giữa hai tâm hồn, hai cuộc đời, không chỉ để yêu thương mà còn để cùng nhau gánh vác bổn phận, trách nhiệm, là hành trình suốt đời với sự hiểu biết, thứ tha, nghĩa tình trong tâm thế sẻ chia niềm vui, nỗi buồn qua năm tháng và cùng nhau trưởng thành. Có nhiều thành ngữ thể hiện quan niệm của người xưa về hôn nhân cũng như các giai đoạn của việc kết hôn.

Thanh mai trúc mã

“Thanh mai trúc mã” là một thành ngữ Hán Việt dùng để chỉ đôi bạn thân thiết từ thời thơ ấu, thường là nam và nữ, trong đó “thanh mai” là quả mơ xanh, món quà vặt ưa thích của các bé gái – ngầm chỉ bé gái; còn “trúc mã” là ngựa đồ chơi làm bằng tre trúc bé trai thường chơi – ám chỉ bé trai, cả hai đều là món quà vặt, đồ chơi quen thuộc của trẻ em thời trước. Thành ngữ này bắt nguồn từ bài thơ “Trường Can hành” của Lý Bạch, miêu tả mối quan hệ thân thiết, trong sáng và hồn nhiên của một đôi trai gái từ thuở nhỏ, đến khi trưởng thành họ kết đôi thành vợ chồng. Nói “thân nhau từ thời thanh mai trúc mã” là chỉ đôi vợ chồng vốn thân thiết với nhau từ thời nhỏ.

Môn đăng hộ đối

Đọc chệch từ thành ngữ gốc Hán “môn đương hộ đối”, nghĩa đen là “cửa nhà cân xứng”, chỉ cổng và cửa (nhà cửa nói chung) của hai gia đình kết thông gia phải tương đương nhau. Thành ngữ chỉ sự tương xứng về gia thế, địa vị, kinh tế và nề nếp giữa hai gia đình khi kết hôn, tránh sự chênh lệch cách biệt. Ngày nay, ý nghĩa này được mở rộng và bao hàm cả sự tương đồng về tri thức, văn hóa, giá trị sống và cả sự hòa hợp về tinh thần, tình yêu thương, tương đồng về trình độ học vấn, nền giáo dục, vốn sống, và văn hóa ứng xử đến sự thấu hiểu, tôn trọng và hòa hợp về giá trị sống giữa hai người. Tựu trung lại, “môn đăng hộ đối” là sự phù hợp giữa hai gia đình khi tiến hành hôn nhân, không chỉ về vật chất mà còn cả về văn hóa, tri thức và lối sống, để đảm bảo sự hòa hợp và bền vững cho cuộc hôn nhân.

Tương kính như tân

“Tương kính như tân” là thành ngữ Hán Việt có nghĩa là vợ chồng tôn trọng nhau, đối đãi nhau như đối đãi với khách quý (tân). Thành ngữ này thể hiện sự tôn trọng, nhường nhịn và giữ gìn thái độ lịch sự, trân trọng đối với nhau, kể từ thuở ban sơ đến khi đã chung sống lâu năm.

Thành ngữ xuất phát từ câu chuyện trong “Xuân Thu tả truyện”, Cữu Kế đi sứ nước ngoài, nhìn thấy Ký Khuyết làm cỏ ngoài đồng, vợ của anh ta mang cơm cho chồng, họ cư xử cung kính, đối đãi với nhau như khách quý, “tương đãi như tân”, về sau được chuyển thành thành ngữ “tương kính như tân”. Thành ngữ đề cao sự tôn trọng, dù trong bất kỳ mối quan hệ nào, không nên vì không thân thiết mà thất lễ hay xem thường, hành xử vô ý, vì sự tôn trọng là nền tảng để xây dựng tình cảm bền chặt.

Tào khang chi thê

Vốn gốc là thành ngữ Hán ngữ “Tao khang chi thê”, trại âm sang Hán Việt “Tào khang chi thê”, trong đó tào là bã hèm còn lại sau khi nấu rượu, còn khang là cám gạo, “tào khang” chỉ thức ăn kham khổ của người nghèo, tượng trưng cho sự nghèo khó, bần hàn. Thành ngữ này xuất xứ từ điển tích Tống Hoằng là quan hiền lương dưới triều vua Quang Vũ (6 trước công nguyên – 57 công nguyên) triều Đông Hán. Vợ ông Hoằng bệnh, bị mù được ông hết lòng chăm sóc. Vua có người chị góa chồng là công chúa Dương Hồ rất ái mộ Tống Hoằng. Biết ý, một hôm vua ướm lời hỏi dò bụng Hoằng “Ngạn ngữ nói: Sang đổi bạn, giàu đổi vợ, có vậy chăng?”, Hoằng đáp “Thần nghe: Bạn bè chơi từ thuở nghèo hèn chớ nên quên, người vợ tấm cám chớ hắt hủi”. Cảm kích Tống Hoằng một lòng chung thủy, vua bèn bỏ ý định tác hợp cho chị của mình. Thành ngữ chỉ người vợ đã cùng chồng chịu thương chịu khó thuở hàn vi, cùng nhau trải qua thời kỳ nghèo khó, gian nan, hoạn nạn, hy sinh vì gia đình thì không thể bỏ được; thành ngữ đề cao tình nghĩa vợ chồng thủy chung, bền vững, không nên bỏ rơi người bạn đời khi đã thành đạt.

Bách niên giai lão

“Bách niên giai lão” là lời chúc phúc đám cưới quen thuộc, mong đôi tân hôn hạnh phúc đến già. Trong đám cưới, chúng ta thường nghe thấy những vị khách mời chúc mừng cô dâu chú rể những lời như “trăm năm hạnh phúc”, “đầu bạc răng long”, “bách niên giai lão”… Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, “bách niên giai lão” được giải nghĩa là lời chúc vợ chồng mới cưới sống lâu hòa hợp đến trăm tuổi. Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê cũng giải nghĩa thành ngữ này là cùng sống với nhau đến trăm tuổi, đến lúc già (thường dùng làm lời chúc vợ chồng mới cưới). Theo nhiều nguồn tư liệu, câu thành ngữ này bắt nguồn từ câu “Chỉ mong tình nghĩa vợ chồng bách niên giai lão, đông con nhiều cháu” (sách Nho lâm ngoại sử) trong văn hóa Trung Hoa. Trong văn hóa Việt Nam, người xưa quan niệm một trăm năm để chỉ toàn bộ thời gian mà một người sống trên cõi đời này, tuy thực tế không mấy ai sống được đến trăm tuổi. Trăm năm không phải là con số cụ thể mà biểu trưng cho một đời người, cho tuổi thọ của một người với ngụ ý là rất nhiều năm.

Như vậy, theo nghĩa đen, câu thành ngữ trên được hiểu là sống cùng nhau già đi đến một trăm tuổi. Từ đó, ta có thể hiểu nét nghĩa bóng của câu thành ngữ này là chúc phúc, mong muốn đôi vợ chồng có được cuộc hôn nhân hạnh phúc viên mãn đến cuối đời. Trong các lễ cưới, chúng ta sẽ thường được nghe những câu chúc quen thuộc như “Chúc cô dâu chú rể đ?u b?c r?ng long, b?ch ni?n giai l?o?, ch?c v? ch?ng ???c h?nh ph?c b?n l?u, chung s?ng c?ng nhau ??n tr?n ??i. Tuy nhi?n, hy h?u c?ng c? ng?ầu bạc răng long, bách niên giai lão”, chúc vợ chồng được hạnh phúc bền lâu, chung sống cùng nhau đến trọn đời. Tuy nhiên, hy hữu cũng có người nhầm khi dùng làm lời chúc trong lễ mừng thọ dành cho chỉ một cụ ông, cụ bà là không phù hợp với từ giai lão hàm ý vợ chồng cùng nhau chung sống đến già. Tương tự, còn có thành ngữ “Bạch đầu giai lão” có nghĩa là vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc bên nhau đến khi bạc đầu, đến già.

Tuy có nguồn gốc từ xa xưa, thành ngữ Hán Việt về hôn nhân thời trước có giá trị lịch sử và văn hóa, giúp ta hiểu thêm về quan niệm hôn nhân truyền thống, mà giá trị cốt lõi là sự bền vững trên nền tảng tình nghĩa, lòng vị tha và sự hy sinh; các cặp vợ chồng sẵn sàng vượt qua khó khăn với sự chung thủy, yêu thương, cùng hy sinh cái tôi để vun đắp hạnh phúc gia đình. Mặc dù quan niệm về hôn nhân và vai trò của vợ chồng ngày nay đã có những thay đổi, đòi hỏi sự thấu hiểu và chia sẻ nhiều hơn thay vì chỉ dựa vào sự hy sinh đơn phương, các giá trị nêu trên vẫn là nền tảng quan trọng cho bất kỳ cuộc hôn nhân nào từ xưa đến nay, trong các tiêu chí ứng xử gia đình hiện đại, mà nếu hai bên không cùng nhau nỗ lực vun đắp hạnh phúc gia đình, các giá trị quý báu ấy bị mai một thì hôn nhân có thể đối mặt với nguy cơ đổ vỡ cao. Cho nên, những thành ngữ Hán Việt về hôn nhân vẫn trường tồn nguyên giá trị trong đời sống gia đình của dân tộc ta trong thời đại ngày nay.

Đ Thành Dương

Bình luận (0)