Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Những năm tháng khó quên của nghề dạy học

Tạp Chí Giáo Dục

Ngh dy hc ca tôi do ngh chn ngưi ngay t nhng năm tháng còn ngi trên ghế nhà trưng. Chính phong thái ung dung, t tin, tình cm dành cho hc trò ca thy cô cùng vi s ngưng m đi vi thy cô, đi vi ngh đã nung nu tâm hn tôi: “Mình ln lên, sau này s theo ngh dy hc!”.

Thầy trò Trường Cấp 3 Kế Sách (nay là Trường THPT Kế Sách, xã Kế Sách, TP.Cần Thơ) gặp nhau kỷ niệm 40 năm ra trường. Tác giả ngồi vị trí thứ 5 từ trái sang phải (hàng ngồi thứ 2)

Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975), công cuộc kiến thiết, xây dựng đất nước được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt, trong đó có việc đào tạo đội ngũ giáo viên cho ngành giáo dục.

Thời điểm đầu tháng 7-1977, tôi còn trong quân ngũ thuộc một đơn vị chính quy của miền Tây Nam bộ; từng công tác, chiến đấu trên mảnh đất này, nay mỗi ngày vẫn hăng say luyện tập, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Một hôm, vào đầu giờ sáng, liên lạc viên của Đại đội 2 chạy xuống báo tin: “Mời đồng chí lên gặp chỉ huy!”. Tôi sửa sang quân phục chỉnh tề, mau chóng lên Ban chỉ huy. Vừa gặp tôi, anh Nguyễn Đức Long (Đại đội trưởng) nói ngay: “Trên Tiểu đoàn cho phép em về Đồng Tâm ôn thi vào đại học (tên gọi của Trường Văn hóa Quân khu 9, thuộc tỉnh Tiền Giang hồi ấy)”. Tôi cảm ơn Đại đội trưởng, người anh quý mến vì cả tiểu đoàn chỉ có 3 người, mỗi đại đội cử 1 người trong đợt này mà thôi. Sau đó, tôi hăm hở lên Ban quân lực làm hồ sơ, giấy tờ xuất ngũ, nhận tháng lương cuối cùng của quân đội.

Sau một chuyến xe đò từ Vàm Cống (thuộc tỉnh An Giang) lên tới Trường văn hóa Đồng Tâm thì gần trưa. Tôi vào Phòng Giáo vụ liên hệ thì các anh cho biết còn gần một tháng sẽ thi, đồng chí đến trễ quá. Sau khi trình bày hoàn cảnh tôi vừa trở về từ chiến trường biên giới Tây Nam, hơn nữa luôn tự học và xin được vô lớp ôn thi dù trễ thời gian. Nghe xong lãnh đạo Phòng Giáo vụ chấp nhận, bố trí nơi ăn chốn ở và tạo mọi điều kiện cho tôi ôn thi cùng các bạn… Quyết bù cho những tháng ngày chiến đấu, tôi miệt mài, hăng hái ôn thi và kết quả thi đậu vào ngành văn, Khoa Sư phạm Trường Đại học Cần Thơ. Bốn năm học đại học (1977-1981) lọt vào “khung” của thời bao cấp đầy khó khăn, đầy thử thách! Thiếu thốn trăm bề nhưng tinh thần học tập, tự học để làm giàu kiến thức không bao giờ thiếu. Thời gian rảnh của chúng tôi không phải la cà nơi quán xá (có tiền đâu để la cà) mà ở trong thư viện; tìm sách báo, tài liệu, ghi chép vào sổ lưu lại cho về sau. Hoặc vài ba đứa bạn vào xóm, làm quen với các gia đình nông dân; rồi đi cắt lúa giúp dân để có bữa cơm ấm áp trên đồng… Thấm thoắt đã đến ngày ra trường, trên phân công tôi về một ngôi trường vùng sâu, vùng xa của tỉnh Hậu Giang hồi đó. Chiếc xe lam xịt khói mù mịt, đưa tôi về một ngôi trường cách Quốc lộ 1 khoảng 10 cây số. Con đường lởm chởm đá, còn ổ gà thì không kể hết. Ngồi trên xe lúc thì lắc bên phải, lúc thì lắc bên trái, làm thân thể tưởng chừng rã rời. Tôi bước vào cổng trường, đến phòng Ban Giám hiệu và trình giấy giới thiệu về trường. Khỏi phải nói niềm vui của thầy hiệu trưởng lớn đến cỡ nào, thầy reo lên vì từ sau giải phóng đến nay (1981), không có giáo viên bộ môn văn chính quy nào chịu phân công về mái trường vùng sâu này. Thầy mời tôi uống trà và hướng dẫn nơi ăn chốn nghỉ cho tôi. Thầy ân cần, vui vẻ động viên bằng câu ca dao đậm sắc màu Nam bộ: “Đến đây thì ở lại đây/ Bao giờ bén rễ xanh cây lại về”. Nào ngờ câu ca dao ấy vận vào tôi và tôi dính chặt với mảnh đất miền Tây Nam bộ đến bây giờ!

Không thể quên nghĩa tình người dân miền Tây Nam bộ dành cho thầy cô, nhất là những người xa xứ như tôi! Học xong đại học, nhiều người xin được trở về quê miền ngoài để được gần quê hương, gần cha mẹ. Còn tôi nhất quyết ở lại bởi trong quãng thời gian chiến đấu, tôi còn nợ mảnh đất này quá nhiều như trong một bài thơ, tôi đã viết: “Ta nợ đất này bao ơn nghĩa/ Sao dời vật đổi dễ gì quên!”.

Tôi là dân Nghệ An nhưng ở miền Tây này, người dân đều gọi là “người Huế” bởi giọng nói miền Trung. Tôi phải tập nói giọng Nam bộ, đổi tông, dùng từ ngữ bình dân khi tiếp xúc với người dân chân chất, hiền lành. Một lần đi dự đám giỗ nhà học sinh do phụ huynh mời, có một bác râu tóc bạc phơ, ngồi chung bàn bỗng đọc câu ca dao làm tôi nhớ mãi: “Rồng chầu ngoài Huế/ Ngựa tế Đồng Nai/ Nước sông trong chảy lộn sông ngoài/ Thương người xa xứ lạc loài đến đây”. Bài ca dao ngắn thôi mà chứa đựng nghĩa tình của người dân Nam bộ. Họ rất thương người, sẵn lòng chở che, đùm bọc; sẵn lòng kết tình huynh đệ, cùng chung lưng đấu cật, cùng sống yên vui trên mảnh đất này…

K nim không th quên

Sau khi lập gia đình, tôi xin được một mảnh đất để làm nhà. Khi biết tin, nhiều phụ huynh dù tôi không trực tiếp dạy con họ lại sốt sắng giúp đỡ. Cụ thể, có phụ huynh cho hai cây so đũa lớn, ngâm dưới mương cả năm trời, giờ vớt lên phơi khô để làm cột; có phụ huynh cho mấy chục cây tầm vông già làm dừng vách; phụ huynh khác cho mấy trăm tấm tranh lá dừa nước để lợp mái nhà… Thế là một ngôi nhà lá xinh xắn mọc lên bằng tình yêu thương, bằng tấm lòng sẻ chia của phụ huynh. Bởi người dân quê nơi đây rất quý trọng thầy cô, có việc cần là họ xáp vô cùng làm, không tính toán, so đo một điều gì cả!

Là người chiến sĩ từng vượt Trường Sơn, vào tận chiến trường sông nước Tây Nam bộ chiến đấu; được học hành bài bản qua ngành sư phạm tôi luôn vận dụng những kiến thức thực tế mình trải qua vào bài giảng. Đó là những giờ học thực sự sinh động, không còn khô khan câu chữ bởi có những kiến thức chỉ có người giáo viên từng khoác áo lính mới có, mới thấu cảm được. Cụ thể, khi giảng bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng), tôi liên hệ đến tư thế ngủ của người lính trận. Nếu trong bài thơ, người lính qua chặng đường hành quân vất vả, chỉ chờ lệnh nghỉ là “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quân đời” thì người chiến sĩ hành quân trên đường luôn có những tư thế ngủ theo đội hình: “Người nằm nghiêng súng cũng nằm nghiêng/ Người ngồi ngửa súng ôm ghì trước ngực/ Những viên đạn cựa mình trong súng thép/ Biết kẻ thù còn ẩn náu trong đêm/ Ba lô nằm đợi lệnh hành quân/ Lá ngụy trang vẫn cài trên mũ/ Từng tiểu đội trong khi nằm ngủ/ Đôi chân vạn dặm vẫn mang giày” (Ngủ rừng theo đội hình đánh giặc – Nguyễn Đức Mậu). Hay khi giảng bài “Mảnh trăng cuối rừng” (Nguyễn Minh Châu), trong câu chuyện có chi tiết “xe vượt qua ngầm” thì học sinh hỏi “ngầm” là gì? Tiếc thay, sách giáo khoa cũng không giải thích. Tôi kể các em nghe chuyện làm ngầm cho xe chạy. Đó là người chiến sĩ thanh niên xung phong đan những cái rọ thép hình hộp chữ nhật. Họ đặt xuống suối, thả đá hộc (lớn) vào; làm thành một đường ngầm qua suối, cách mặt nước khoảng hơn nửa mét. Như vậy, đây là một cách làm sáng tạo bởi xe chạy qua được nhưng từ trên trời, máy bay Mỹ không thể nào phát hiện được. Khi qua ngầm, luôn có 6-7 người đứng hai bên, tay cầm bẹ chuối rừng trắng để chiến sĩ lái xe đi đúng ngầm an toàn. Nghe nói về những kiến thức thực tế như vậy, học sinh rất chăm chú lắng nghe và khắc sâu, nhớ mãi. Sau 35-40 năm, mỗi khi tụ họp về trường, các em vẫn còn nhắc tới những kỷ niệm của một thời bao cấp thiếu thốn nhưng tình nghĩa thầy trò luôn dư dả…

Sống trong tình thương yêu của học sinh, của phụ huynh, của người dân miền Tây, tôi luôn thầm tự nhủ mình phải sống cho xứng đáng với niềm tin yêu ấy. Tôi luôn dạy học sinh hết mình, không ngừng tự học để nâng cao trình độ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của chương trình giảng dạy. Một thế hệ giáo viên từ bộ đội chuyển ngành, một thế hệ giàu nghị lực, ham học hỏi đã lan tỏa lòng yêu người, lòng yêu nghề cho nền giáo dục.

Lê Đc Đng

Bình luận (0)