Nhân tìm hiểu kho tàng ca dao dân gian về tình yêu nam nữ, chúng tôi bắt gặp câu ca dao “Rồi mùa toóc rã, rơm khô/ Bạn về quê bạn, biết mô mà tìm” cùng với khá nhiều dị bản song hành: Rồi mùa toóc rạ rơm khô/ Bậu về quê bậu, biết nơi mô mà tìm; Rồi mùa rạ toóc rơm khô/ Bạn về quê bạn biết nơi mô mà tìm; Rồi mùa rạ đốt, rơm khô/ Bạn về xứ bạn, biết nơi mô mà tìm.

Cũng câu ca dao này, ở vùng quê “xứ nẫu” Bình Định, Phú Yên (cũ) thì có thêm dị bản: Rồi mùa tóp rạ rơm khô/ Nẫu về xứ nẫu biết mô mà tìm… Tiếp tục tìm hiểu, chúng tôi đọc được tùy bút của một nhà báo kỳ cựu ở Quảng Trị, trong đó tác giả cho rằng câu ca dao này là của vùng Quảng Trị ở Trung bộ nước ta và diễn giải thêm “Không biết miền Trung có câu ca dao mô da diết hơn cái câu: “Rồi mùa toóc rạ rơm khô/ Bậu về quê bậu biết mô mà tìm””.
Theo dõi cuộc trao đổi trên một nhóm Facebook có tên “Câu lạc bộ Nghệ ngữ” gồm các thành viên quê xứ Nghệ, chúng tôi ghi nhận khá nhiều ý kiến tranh luận về các vấn đề còn tồn nghi trong câu ca dao: “toóc rã”, “toóc rạ” hay “rạ toóc”; “bậu” hay “bạn”; câu ca dao ký thác tâm tư của chàng trai hay cô gái; câu ca ấy xuất phát từ vùng đất nào… Theo Từ điển tiếng Việt do GS. Hoàng Phê chủ biên, giải nghĩa các từ tồn nghi trong câu ca dao, lần lượt ta có: “rồi” là phương ngữ, có nghĩa là xong, ví dụ “Nhiệm vụ chưa rồi”; “toóc” có nghĩa là rạ, tức phần dưới của thân lúa còn lại sau khi gặt xong; “rã” là động từ, chỉ các thành phần rời nhau ra, không còn liên kết với nhau, ví dụ: Hoa rã cánh; “bậu” là phương ngữ Nam bộ, đại từ xưng hô ngôi thứ hai “người con trai dùng để gọi vợ hay người yêu khi nói với vợ, với người yêu (tỏ ý thân thiết)”, khi dùng hay kết hợp với đại từ ngôi thứ nhất “qua”, cặp đại từ qua – bậu không thấy được sử dụng trong cộng đồng cư dân Trung bộ, mà chúng ta có thể bắt gặp cách xưng hô qua – bậu này trong nhiều câu ca dao Nam bộ, tạo nên một cặp đại từ đặc trưng của vùng đất phương Nam: Bậu với qua gá nghĩa chung tình/ Dẫu ăn cơm quán, ngủ đình cũng cam; Ngồi buồn ngắt ngọn rau mơ/ Qua thương em bậu, làm ngơ sao đành; Mưa lâm thâm, ướt dầm bông sói/ Bậu đi lấy chồng, sao không nói qua hay?
Tiếp tục khảo sát, cũng theo Từ điển tiếng Việt đã dẫn trên, trong 4 nghĩa của từ “bạn” mà từ điển ghi nhận, hầu hết mọi người đều hiểu theo nghĩa thứ nhất phổ dụng là “người quen biết và có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng, do hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng hoạt động…”, mà không biết từ “bạn” trong câu ca dao được sử dụng theo nghĩa thứ hai (phương ngữ) chỉ “người đàn ông đi ở làm thuê theo mùa, theo việc trong xã hội cũ”, ví dụ: bạn ghe, bạn cấy, bạn gặt; “mô” là phương ngữ Trung bộ (kéo dài từ Bắc Trung bộ vào đến tận Quảng Nam, Đà Nẵng cũ) có thể mang một trong hai nghĩa tùy phát ngôn: 1/Đâu, ví dụ: Quê ở mô?; 2/Nào, ví dụ: Khi mô?
Còn về từ “toóc”, theo nhiều nhà ngôn ngữ học, trong phương ngữ khu vực từ xứ Nghệ (gồm Nghệ An, Hà Tĩnh) đến xứ Huế, “toóc” là từ địa phương – tương ứng với từ toàn dân là “rạ”, tức phần dưới của thân lúa còn lại sau khi gặt xong, “rơm” là phần trên của cây lúa sau khi được đập lấy hạt, “rã” có nghĩa là đổ gục xuống/mục nát; “toóc rã rơm khô” là thời điểm vụ lúa kết thúc, mùa màng thu hoạch xong xuôi. Do âm sắc phát âm nặng của giọng miền Trung, các tiếng mang dấu sắc, dấu hỏi, đặc biệt là dấu ngã thường được cư dân phát âm thành dấu nặng, nên “toóc rã” mới nghe và viết nhầm thành “toóc rạ”, đồng thời cũng bởi từ “rạ” cũng có nghĩa liên quan tới rơm rạ trong câu ca dao này, nên câu lục “Rồi mùa toóc rã, rơm khô” bị nhiều người truyền miệng nhầm thành dị bản “Rồi mùa toóc rạ rơm khô”, không những làm hình ảnh rạ bị trùng lặp, không giữ nguyên kiểu đối xứng bổ sung của cặp hình ảnh “toóc rã” >< “rơm khô” mà còn làm mất đi ý nghĩa tăng cường, trùng điệp của kết cấu ngôn từ sóng đôi: toóc thì rã – rơm thì khô.
Xem xét vấn đề tồn nghi còn lại, câu ca dao là lời ký thác của chàng trai bản quán đến cô gái thợ gặt hay của cô gái địa phương đối với chàng trai “bạn gặt” thời vụ, chúng ta có thể khẳng định một điều chắc chắn rằng, đây là tâm tình băn khoăn lưu luyến của cô gái quê Trung bộ ngỏ ý nhắn nhủ đến chàng trai “bạn gặt” hết việc, sắp rời đi – về quê – sau khi vụ lúa đã thu hoạch xong.
Tâm trạng trong bài ca dao nói trên tương tự nỗi niềm sâu nặng của cô gái gửi đến chàng trai trong câu ca dao hết sức quen thuộc với các thế hệ người Việt “Thuyền về có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Bài ca dao tái hiện cặp hình ảnh ẩn dụ kinh điển thuyền – bến trong văn học dân gian, trong đó “thuyền” tượng trưng cho người nam (thường đi xa) và “bến” tượng trưng cho người nữ (ở lại chờ đợi). Bởi, đặc thù công việc thời xưa thường có sự phân biệt vai trò giới tính như vậy: nam giới thường là người bôn ba, đi xa để lao động, buôn bán hoặc tham gia chiến trận, trong khi nữ giới ở nhà lo việc nội trợ, chăm sóc gia đình và chờ đợi người thân trở về; câu ca dao là lời tâm sự ý nhị, kín đáo về tình yêu và sự thủy chung, thể hiện tâm trạng người phụ nữ (bến) luôn một lòng mong ngóng người yêu (thuyền) trở về.
Trở lại câu ca dao đang bàn, thuở ấy nền nông nghiệp tiểu điền nước ta nói chung và ở miền Trung nói riêng luôn cần đông số lượng nhân lực để làm kịp mùa vụ, nên ngoài có chế độ vần công trong xóm giềng, gia chủ còn phải thuê mướn thêm nhân công mới đủ. Mỗi khi đến ngày mùa, vì phải tập trung thu hoạch lúa trong thời gian ngắn nên thường thiếu lao động, cần phải thuê thêm nhân lực. Những người ở các vùng quê khác nhàn rỗi, thường kết thành nhóm “bạn” đi nhận làm thuê các công việc thời vụ cấy hái, đặc biệt là vụ gặt. Và, trong quá trình lao động, nam nữ đã nảy sinh tình cảm, thầm thương trộm nhớ nhau, nhưng chưa kịp tìm hiểu đối tượng thì vụ mùa đã kết thúc, cả hai đành phải chia xa. Như vậy, trên cơ sở giải mã những tồn nghi nội tại, đến đây có thể phỏng đoán câu ca dao trên có “nguyên quán” từ vùng đất Trung bộ, khoảng địa phận từ xứ Nghệ đến xứ Huế với dạng ban đầu là “Rồi mùa toóc rã, rơm khô/ Bạn về quê bạn, biết mô mà tìm”. Câu ca dao sau khi được truyền miệng du nhập đến các vùng đất khác, các tác giả dân gian đã cải biến thêm về từ ngữ cho phù hợp với đặc điểm vùng đất của mình, như thay đổi các từ: “bạn” thành “bậu” (Nam bộ) hoặc “nẫu” (Bình Định – Phú Yên cũ), “quê” thành “xứ”… Vốn là tác phẩm dân gian có hai đặc trưng cơ bản gắn bó mật thiết, hữu cơ với nhau là tính truyền miệng và tính dị bản, nên trong quá trình lưu truyền qua nhiều vùng đất, nhiều thế hệ, câu ca dao cũng không tránh khỏi tình trạng được tạo sinh thêm nhiều dị bản, nhưng nỗi niềm lưu luyến, tâm trạng tha thiết ẩn chứa trong mỗi câu chữ của câu ca dao không hề suy giảm. Chỉ riêng hiện tượng câu ca dao ấy được sáng tác, sáng tạo thêm nhiều dị bản như trên đã nói lên sức sống mạnh mẽ, sức thâm nhập lâu bền của tác phẩm dân gian qua thời gian và không gian.
Hiện nay, nghề canh tác lúa nước đã có nhiều tiến bộ về kỹ thuật, các khâu trồng cấy, chăm sóc, thu hoạch đều được cơ giới hóa, nên không còn những nhóm “bạn gặt”, hình ảnh “toóc rã, rơm khô” trong những mùa gặt cũng chỉ còn tồn tại ở ít vùng nông thôn, mà đa phần giới trẻ thành thị đã dần quên hoặc không còn biết đến nữa. Tuy nhiên, trong kho tàng ca dao trữ tình nước nhà được trao truyền qua bao thế hệ sẽ còn mãi những câu ca dao về tình yêu đôi lứa thấm đẫm tình làng quê với mùi thơm rơm rạ dân dã, chứa chan hồn quê ngan ngát thuở nào.
Đỗ Thành Dương

Bình luận (0)