Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, người được UNESCO tôn vinh danh nhân văn hóa thế giới năm 2021, không chỉ gây sự chú ý cho hậu thế bởi bà là nhà thơ nữ nổi bật nhất trong văn chương trung đại Việt Nam, trước tác thơ ca táo bạo, độc đáo, “vừa có nét người, vừa có tiên và quỷ trong thơ” (Xuân Diệu), mà còn bởi nhiều góc khuất về số phận.

Cuộc đời Hồ Xuân Hương là bức tranh vừa sáng vừa tối, giữa xác thực và huyền thoại. Chính những góc khuất ấy đã khiến bà trở thành hiện tượng đặc biệt – “nữ sĩ tài hoa mà đa đoan”, vừa thật vừa mộng; vừa sống trong sử, vừa ẩn trong thơ…
Cuộc đời nhiều “ẩn khuất”
Theo tìm hiểu của chúng tôi, có nhiều lý do khiến cuộc đời Hồ Xuân Hương được xem là “nhiều ẩn số”. Trước nhất là việc thiếu tư liệu lịch sử xác thực. Hầu như không có tài liệu chính thức nào ghi chép đầy đủ về tiểu sử của Hồ Xuân Hương. Các sách sử, như Đại Nam thực lục, Quốc sử quán (triều Nguyễn), Lịch triều hiến chương loại chí… đều không đề cập rõ ràng đến bà. Phần lớn những gì chúng ta biết được hôm nay chủ yếu dựa vào giai thoại, từ truyền miệng hoặc suy đoán từ sáng tác.
Theo Từ điển Văn học (bộ mới), thân thế và quê quán của Hồ Xuân Hương cũng chưa rõ ràng. Có người cho rằng quê bà ở Nghệ An, theo dòng họ Hồ, rồi phiêu dạt ra Thăng Long. Có người lại khẳng định bà sinh ra ở phường Khán Xuân (Hà Nội), nay thuộc Hồ Tây. Ngay cả năm sinh và mất cũng không thống nhất. Có tài liệu ghi 1772-1822 nhưng cũng có nguồn cho là 1778-1828. Sách giáo khoa nhà trường thì ghi ? – ?, nghĩa là chưa rõ cụ thể năm sinh và mất. Về vấn đề thân phận và hôn nhân cũng nhiều uẩn khuất. Giai thoại kể bà từng làm lẽ cho Tổng Cóc, rồi Tổng Quỳ, nhưng các nhân vật này cũng mơ hồ, không có ghi chép chính thức. Nhiều người cho rằng bà bị ép duyên, sống cảnh “chồng chung”, điều đó giải thích cho giọng thơ đầy phẫn uất và khát khao tự do. Một số học giả còn nghi ngờ có hai “Hồ Xuân Hương” khác nhau, một người sống thời Lê mạt, một người thời Nguyễn sơ, do văn phong thơ có sự khác biệt.
Tác phẩm thơ có nhiều tranh cãi về tác giả là tập Lưu Hương Ký, được coi là thơ của Hồ Xuân Hương song trước đây vẫn tồn nghi về tác giả. Có ý kiến cho rằng có phần thơ của người khác được gán tên bà. Một số bài “tục mà thanh” lưu truyền bằng truyền miệng, nên việc xác định đâu là thơ thật của bà vẫn còn chưa rõ ràng (theo Wikipedia về Hồ Xuân Hương).
Một điểm nữa là thiếu dấu tích về hậu phận và nơi an táng. Không có ghi chép chính xác bà mất năm nào, mộ ở đâu. Một vài địa danh như Nghệ An, Nam Định, Hà Nội đều có “truyền thuyết” là nơi an nghỉ của bà, điều này càng khiến cuộc đời bà thêm phần huyền bí.
Tình duyên lận đận
Đường tình duyên lận đận là một trong những điểm “bi kịch sâu sắc nhất” trong cuộc đời nữ sĩ Hồ Xuân Hương làm “nền” cho giọng thơ vừa đằm thắm, vừa chua cay và đầy phẫn uất. Các tư liệu dân gian, giai thoại và thơ ca cho thấy rõ điều đó. Người con gái tài hoa nhưng lẻ loi. Hồ Xuân Hương nổi tiếng tài sắc, thông minh, văn chương lỗi lạc, lại có cá tính mạnh mẽ, tự tin. Nhưng xã hội phong kiến thời ấy khắt khe với phụ nữ, coi “tài tình” là mối họa cho thân, khiến bà dù được ngưỡng mộ vẫn khó tìm được hạnh phúc trọn vẹn. Có thể vì vậy mà trong thơ bà vang lên nhiều tiếng than thân trách phận của phụ nữ cô đơn: “Thân này ví xẻ làm đôi được/ Nửa để trong nhà, nửa đệ ra” (theo Quốc văn tùng ký).
Cuộc hôn nhân với Tổng Cóc là nỗi đau “làm lẽ”. Giai thoại nổi tiếng nhất kể rằng bà làm lẽ cho Tổng Cóc, một viên quan hào phú nhưng thô kệch. Cuộc hôn nhân ấy không mang lại hạnh phúc mà chỉ đem đến tủi nhục, vì bà phải sống cảnh “chồng chung”, bị coi là người thứ hai. Bài thơ Làm lẽ được xem là tiếng lòng của bà trong giai đoạn ấy: Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng,/ Chém cha cái kiếp lấy chồng chung./… /Thân này ví biết dường này nhỉ,/ Thà trước thôi đành ở vậy xong. Những câu thơ ấy vừa táo bạo, vừa xót xa, cho thấy nỗi đau thân phận người phụ nữ tự do bị trói vào vòng lễ giáo. Cuộc tình dang dở thứ hai với Tổng Quỳ. Sau khi Tổng Cóc mất (theo giai thoại), bà lại nên duyên với Tổng Quỳ – người được cho là hiền hậu, biết trọng tài năng của bà. Nhưng duyên phận lại ngắn ngủi, Tổng Quỳ qua đời sớm, để lại bà một lần nữa lẻ bóng. Người đời nói rằng chính sau cú sốc ấy, thơ bà càng sâu cay, phẫn uất, tràn ngập ý thức phản kháng, tự do và khát vọng sống trọn vẹn hơn. Cuối đời, không có chứng cứ nào nói bà tái giá sau đó. Một số giả thuyết cho rằng bà sống ẩn dật, tiếp tục sáng tác thơ.
Cuộc đời Hồ Xuân Hương là bi kịch của một người đàn bà tài hoa trong xã hội bất công, khao khát yêu thương nhưng luôn gặp duyên phận éo le. Chính những mối tình dang dở và nỗi cô đơn ấy đã nuôi dưỡng một giọng thơ vừa tình tứ, vừa chua cay và nhân bản, khiến tên tuổi bà sống mãi như bông hoa lạ giữa vườn thơ Việt Nam trung đại, “đầy tinh thần chống lễ giáo phong kiến và giàu lòng nhân đạo, chứa chan lòng yêu đời” (Đặng Thanh Lê, Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 3, 1963).
Vì sao Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà chúa thơ Nôm”?
Nhà thơ Xuân Diệu đã tôn vinh nữ sĩ Hồ Xuân Hương là “Bà chúa thơ Nôm” trong bài tiểu luận có tựa đề “Hồ Xuân Hương – Bà Chúa thơ Nôm” vào năm 1958, sau đó được đưa vào cuốn phê bình văn học “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam”.
Trong nền văn học trung đại Việt Nam, thơ Nôm từng được nhiều tác giả sử dụng, song chỉ đến Hồ Xuân Hương, tiếng Nôm mới thật sự đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ. Bà biến ngôn ngữ dân gian mộc mạc trở nên tinh tế, hóm hỉnh, có chiều sâu triết lý và sức lay động mạnh mẽ. Những hình ảnh quen thuộc trong đời sống thường nhật như bánh trôi, cái quạt, quả mít, hang Cắc Cớ… qua ngòi bút của Hồ Xuân Hương bỗng hóa thành biểu tượng cho thân phận và khát vọng của người phụ nữ. Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng nói tự do, phản kháng, là sự nổi loạn của một tâm hồn tài hoa bị lễ giáo trói buộc. Bà dám nói thẳng, nói thật, nói hết nỗi đau và khát vọng yêu thương, từ đó khẳng định phẩm giá và quyền sống của con người, đặc biệt là người phụ nữ. Giáo sư Nguyễn Lộc (trong Thơ Hồ Xuân Hương, 1982) nhận xét khá tường tận: “Dường như không chỉ là ý thức mà đã trở thành tiềm thức, Hồ Xuân Hương có một lòng tin mãnh liệt vào tài năng sáng tạo của người phụ nữ”. Chính niềm tin này vực dậy nơi bà nguồn cảm hứng sáng tạo bất tận, với bút lực ngôn từ “của một thế giới âm thanh rộn rã, náo động” (Đỗ Đức Hiểu, Tạp chí Văn học, số 5, 1990), xứng đáng với “chúa” về làm thơ chữ Nôm.
Với giọng thơ “tục mà thanh”, vừa đậm chất dân gian, vừa sâu sắc trí tuệ, Hồ Xuân Hương đã làm chủ hoàn toàn tiếng nói dân tộc và nâng nó lên tầm nghệ thuật bác học. Danh hiệu “Bà chúa thơ Nôm” vì thế là sự tôn vinh xứng đáng cho một tài năng kỳ lạ – người đã biến tiếng Việt thành tiếng cười, tiếng khóc và tiếng thở dài đầy nhân bản, thấm đẫm chất văn hóa dân tộc Việt Nam.
Trần Ngọc Tuấn

Bình luận (0)