|
Lord Byron – nhà thơ yêu thích của Nobel
|
Có thể khi nhắc tới Alfred Nobel, mọi người chỉ biết đến ông như một nhà phát minh thiên tài, hay một nhà tư bản công nghiệp đầy tài năng. Cũng chính vì thế mà niềm say mê đối với lĩnh vực văn học cũng như những tác phẩm văn học, thi ca của ông đã bị lãng quên, hay nói một cách chính xác hơn là đã bị cái bóng (nhà khoa học) quá lớn che khuất.
Tình yêu với văn học
Nhiều người cho rằng, Alfred Nobel sinh ra là để phục vụ cho công việc liên quan đến các phát minh sáng chế, nhưng ít ai biết rằng niềm đam mê thứ hai của ông sau những phát minh ấy chính là văn chương. Ông đã để lại cho thế giới một thư viện với hơn 1.500 đầu sách đủ các thể loại như triết học, thần học, lịch sử, khoa học nhưng chiếm đa số vẫn là các tiểu thuyết văn chương, những tác phẩm nổi tiếng của các tác gia vĩ đại thời bấy giờ. Ngay cả bản thân ông cũng đã từng đặt bút viết những tác phẩm như I ljusasta Afrika (1861 – tiếng Anh: In Brightest Africa), Systrarna (1862 – tiếng Anh: The Sisters), tiểu thuyết châm biếm The Patent Bacillus (1895) và đặc biệt là quyển tiểu thuyết bi kịch Nemesis được xuất bản năm 1896…
Trong những năm tháng tại St. Petersburg, dưới sự giảng dạy của các giáo sư có tiếng do cha của ông là Immanuel mời về, Alfred không chỉ được học các môn như hóa học,vật lý mà còn được truyền đạt các kiến thức về văn học và triết học. Và cậu bé Alfred Nobel đã thể hiện mình là một học sinh sáng dạ phi thường mặc dù có hơi trầm tính. Có lẽ chính tính cách sống nội tâm này khiến cậu tìm đến văn học. Những nhà thơ Anh trữ tình nổi tiếng như Wordsworth, Shelley và Lord Byron là các tác gia yêu thích của ông trong một thời gian rất lâu sau đó.
Sau khi trở về Stockholm vào khoảng năm 1863, những ngày tháng bận rộn nhất của cuộc đời khiến ông phải gác niềm đam mê văn học sang một bên. Nhưng mặc dù phải tập trung hết thời gian và sức lực vào những công trình thí nghiệm, các vấn đề tài chính nhưng thói quen thư giãn của ông chính là đọc sách. Thậm chí là trong một bức thư của ông đã tiết lộ rằng vào những thời điểm mà các công trình nghiên cứu không đạt được kết quả khả quan, ông đã từng muốn từ bỏ công việc lúc bấy giờ để dành hết thời gian còn lại của cuộc đời vào công việc viết văn.
Nobel định cư ở Paris khi ông bước vào tuổi 40. Tại một nơi được gọi là thủ đô của văn hóa này, ông đã được gặp những nhà văn, nhà thơ trẻ có chút tiếng tăm như Pierre Loti, Paul Bourget, Maupassant và đặc biệt là một nhà văn nổi tiếng, cũng là người ông ái mộ nhất, nhà văn Victor Hugo. Họ thường xuyên liên lạc với nhau trong một thời gian, Nobel thỉnh thoảng còn được Hugo mời đến nhà riêng cách nơi ở của Nobel không xa tại khu Bois de Boulogne. Trong sinh nhật lần thứ 83 của Hugo vào năm 1885, Nobel có gửi một bức điện tín để chúc mừng: Vive et vive de longues années… (Tạm dịch là “Kính gửi ngài, cầu mong linh hồn ngài sống mãi để làm cả thế giới mê hoặc, và những lý tưởng hòa bình toàn cầu của ngài sẽ mãi được truyền đạt”). Một sự kiện khác rất quan trọng đó chính là tại đây, ông gặp Bertha von Suttner, người phụ nữ có rất nhiều ảnh hưởng đối với Nobel trong suốt những năm tháng sau đó. Có thể nói Paris và Bertha đã giúp cho niềm say mê văn học của Nobel được sống lại. Trong thời gian Bertha làm thư ký riêng cho mình, Nobel không ngừng trao đổi những vấn đề về văn chương với bà, họ thảo luận về các tác phẩm của các tiểu thuyết gia nổi tiếng cũng như những tác phẩm của chính họ. Họ giữ liên lạc với nhau trong một thời gian dài qua thư từ, cùng thảo luận về các vấn đề hòa bình cũng như về các tác phẩm văn chương.
Trong những năm tháng cuối đời, tình hình sức khỏe không cho phép Noel tham dự quá nhiều vào công việc phát minh cũng như kinh tế và đó cũng chính là khoảng thời gian ông dành cho công việc viết lách của mình. Ông hoàn thành bản phác thảo các tiểu thuyết thuộc nhiều thể loại, trong đó đặc biệt phải kể đến một tiểu thuyết bi kịch hoàn chỉnh và được ông cho xuất bản vào năm 1896 mang tên Nemesis. Khoảng 100 ấn bản được in ra nhưng sau đó đã bị tiêu hủy theo nguyện vọng của người nhà Nobel do tính chất quá bi thảm và đau buồn như chính số phận của nhà văn không chuyên này.
Một tâm hồn thi nhân
Những lúc cảm thấy trong lòng cô đơn, hay mệt mỏi với công việc, Alfred Nobel lại cầm bút để trở thành một thi nhân.
Cô đơn, nỗi khao khát có được một tình yêu đích thực khiến cho những dòng thơ Nobel luôn mang tâm trạng trầm buồn đầy chất tự sự. So với thơ thì ông tỏ ra ít ưu ái hơn, chính xác là ông chỉ dùng thơ để giãi bày cũng như làm nguôi ngoai đi nỗi cô đơn, sự mệt mỏi với công việc. Ông sáng tác thơ không nhiều, chỉ một số bài thơ viết tay được ông sáng tác rải rác trong suốt cuộc đời của mình từ những năm tháng tuổi trẻ cho đến những ngày cuối cùng của cuộc đời. Một điều đặc biệt cần phải nói đến là phần lớn các bài thơ đặc sắc nhất của ông không viết bằng tiếng mẹ đẻ mà được sáng tác bằng một ngôn ngữ khác, tiếng Anh, những bài dài nhất và có vẻ hoàn chỉnh nhất được sáng tác bằng tiếng Anh theo thể thơ không vần. Ngoại trừ một vài ngoại lệ, phần lớn các bài thơ cũng như các bản phác thảo thơ hoàn chỉnh của ông không được nhiều người biết đến, thậm chí là những người thân cận nhất với ông. Tại sao Nobel lại không cho xuất bản hoặc ít nhất là công bố những tập thơ hay bài thơ của mình? Điều này cũng không có gì là khó hiểu, từ thời còn đi học, Nobel đã là một cậu học sinh ít nói, trầm tính và sống rất nội tâm nên những gì thuộc về riêng tư, như các bài thơ tự sự, ông luôn muốn giữ cho riêng mình, ông bảo vệ những tâm sự của mình một cách “ích kỷ”. Có thể khi nhắc đến Nobel và những bài thơ thì nhiều người sẽ nghĩ ngay đến các vần thơ thần bí có phần cao siêu, nhưng ngược lại, ông chỉ viết về những gì thuộc về chính bản thân, một người đàn ông phi thường trong khoa học nhưng cũng là một thi nhân đa dạng trong xúc cảm. Các vần thơ của ông luôn phảng phất sự nội tâm khao khát tình yêu nhưng được thể hiện một cách thông minh và vô cùng tinh tế.
Dù các tác phẩm văn học của Nobel phần lớn đều ở dạng phác thảo và cũng chỉ có một số ít được xuất bản nhưng tâm hồn văn chương của ông là điều không thể chối bỏ. Dành hết cuộc đời cho những phát minh khoa học, các sáng chế vô cùng hữu ích, nhưng Nobel cũng đã dành cho tình yêu văn chương một vị trí đặc biệt trong cuộc đời ông.
Minh Hiền
|
Đối với Nobel, thơ ca là một nguồn năng lượng cũng như động lực giúp cho ông có thể tiếp tục công việc nghiên cứu và phát minh.
|
Kỳ 3: Nỗi niềm khát khao hòa bình


Bình luận (0)