Y tế - Văn hóaDinh dưỡng học đường

Ăn uống hơn là thuốc

Tạp Chí Giáo Dục

Phần lớn dược phẩm ngày nay được bào chế chủ yếu ngăn chặn triệu chứng của bệnh chứ không hẳn ngăn chặn bệnh. Thuốc có giá trị thật sự phải có khả năng khắc phục những căn bệnh thoái hóa như viêm khớp xương và loãng xương… Những thuốc như thế chỉ có thể dựa vào chế độ ăn uống hằng ngày.
Các bà nội trợ khi đi chợ cũng thích mua các loại rau quả có màu sắc tự nhiên như cà chua, cà rốt, bông cải… cho bữa ăn hăng ngày – Ảnh: N.C.T.
Ngày nay, phần lớn dân số không chết vì bệnh truyền nhiễm hay thương tật mà chết vì ung thư và những căn bệnh mang tính thoái hóa với tuổi già như: tim mạch, loãng xương, Alzheimer…
Thức ăn làm thay đổi cán cân bệnh tật
Theo thống kê, hiện nay cứ sáu người trong độ tuổi 60 trở lên thì có năm người mắc một trong những bệnh trên. Thuốc có thể kiềm chế triệu chứng, nhưng thuốc không có hiệu quả gì đáng kể trong việc làm thay đổi cơ chế của căn bệnh. Ý tưởng “magic bullet” (viên đạn kỳ diệu) vào thế kỷ 19 được các nhà khoa học tin tưởng và quảng bá đã cho ra đời công nghệ dược học. Ý tưởng “viên đạn kỳ diệu” cho rằng thuốc có thể chinh phục các chứng nan y. Thế nhưng trong thực tế chiến lược này ít khi nào chữa bệnh mà chỉ kiềm chế triệu chứng bệnh và thường gây ra nhiều phản ứng có khi rất nghiêm trọng.
Y khoa hiện đại là một khoa học và nghệ thuật quản lý khủng hoảng sinh học: chờ đến khi chẩn đoán và sau đó là điều trị. Nhưng đến khi triệu chứng của căn bệnh xuất hiện, cơ thể đã bị tổn thương đến độ thuốc men không thể giải quyết được. Những bệnh thoái hóa với tuổi tác như bệnh tim mạch và bệnh Alzheimer thường trải qua một giai đoạn âm ỉ khá lâu trước khi biểu hiện triệu chứng. Nhưng chẩn đoán phần lớn dựa vào triệu chứng. Do vậy, nhiều người bề ngoài có vẻ khỏe mạnh nhưng thực tế đã ở vào giai đoạn tiền bệnh.
Nhưng có phải những bệnh này vô phương cứu chữa? Y học phòng ngừa đặt trọng tâm vào giai đoạn tiền bệnh, phân tích những hư hỏng trong hệ thống nội tiết dẫn đến bệnh tật. Trường phái y học này có khả năng ngăn ngừa bệnh trước khi triệu chứng xuất hiện.
Nhiều nghiên cứu trong người di cư cho thấy những bệnh gọi là thoái hóa phần lớn do các yếu tố liên quan đến môi trường sống, cụ thể là lối sống như thói quen hút thuốc, uống rượu, vận động và chế độ ăn uống. Dinh dưỡng hay chế độ ăn uống là yếu tố hiển nhiên và rất dễ thay đổi. Thức ăn chúng ta dùng hằng ngày có ảnh hưởng sâu xa đến hệ thống nội tiết và là một phương tiện vừa thực tế vừa hữu hiệu để có thể làm thay đổi cán cân bệnh tật.
Đến nay có nhiều bằng chứng, như trình bày trong bản báo cáo của Tổ chức Y tế thế giới và một số báo cáo của các cơ quan chuyên môn khác, cho thấy suy dinh dưỡng dạng B là một nguyên nhân chính gây ra các chứng bệnh mãn tính.
Nếu giả thiết này đúng thì logic của việc chữa trị những chứng bệnh là bổ sung nhiều chất vi dinh dưỡng (hay có thể gọi là pharmaco – nutrition – dược dinh dưỡng), chứ không phải thuốc được chế biến bằng hóa chất. Dược dinh dưỡng có thể sử dụng dưới hình thức thuốc viên hay thực phẩm chức năng (functional foods). Phương cách này chưa bao giờ được chú ý đúng mức vì không đem lại lợi nhuận cho các công ty thuốc. Các công ty thuốc không thể đăng ký bản quyền sáng chế dược dinh dưỡng hay những thực phẩm tính năng. Do đó phương cách trị bệnh bằng dược dinh dưỡng không phù hợp với lợi ích của y học hiện đại, một nền y học dựa vào chủ nghĩa can thiệp là chính.
Tuy nhiên, mô hình y – dược cũng vô tình tạo nên một “văn hóa ký sinh”, tức là phụ thuộc một cách bệnh hoạn vào thuốc men, và ít ai trong chúng ta nhận lãnh trách nhiệm duy trì sức khỏe cho chính mình. Thay vào đó chúng ta trao nhiệm vụ này cho giới y tế.
Có nhiều thuốc làm giảm đau và nhiều cách kiềm chế triệu chứng căn bệnh, nhưng chẳng có phương pháp chữa bệnh. Có thể nói khi kỹ nghệ dược được sáng lập dựa vào ý tưởng “viên đạn huyền diệu” đã có một định hướng sai lầm. Louis Pasteur là một người trí thức đúng nghĩa. Lúc cuối đời ông nhận ra rằng le terrain (hệ thống sinh lý nội tiết) là yếu tố quan trọng nhất trong việc duy trì sức khỏe. Nhưng tiếc thay, ngày nay, hệ thống sinh lý nội tiết ngày càng tồi tệ hơn vì tình trạng suy dinh dưỡng dạng B.
Cần bổ sung dinh dưỡng  toàn diện
Một vấn đề lớn cho những người cổ vũ lý thuyết suy dinh dưỡng dạng B là vấn đề thiếu thốn bằng chứng khoa học. Chúng ta có một kho tàng dữ kiện dịch tễ học cho thấy mối liên hệ giữa dinh dưỡng với nguy cơ bệnh tật và một kho tàng kiến thức về cơ chế bệnh tật, về mối liên đới giữa thức ăn và hóa chất. Nhưng hầu hết nghiên cứu với các chất vi dinh dưỡng, ngoại trừ chất béo omega-3, đều cho ra những kết quả thiếu nhất quán. Nói cách khác, khoa học mà chúng ta thực hành không có giá trị tiên đoán. Nhưng sự thật này có làm khoa học mất hiệu lực không? Hay là chúng ta đặt những câu hỏi sai?
Dựa vào cách suy nghĩ của kỹ nghệ dược, phần lớn nghiên cứu lâm sàng cố tìm cách đo lường tác dụng của một chất vi dinh dưỡng và mối tương quan giữa nó với một căn bệnh. Điều này cũng hợp lý vì theo cách nghĩ cổ điển, nếu chúng ta thử nghiệm một hợp chất (gồm nhiều chất dinh dưỡng) thì sẽ không biết chất nào cho ra tác dụng tích cực và chất nào cho ra tác dụng tiêu cực. Do đó chúng ta phải thử nghiệm từng chất một. Nhưng trong lĩnh vực dinh dưỡng, cách thức này sẽ không có hiệu quả. Nó cũng giống như người thợ máy khi đứng trước một chiếc xe không được bảo trì thường xuyên và đòi hỏi phải lái thử trước khi thay cái lược nhớt, người thợ khác đòi phải thay bugi…
Mỗi can thiệp tự nó ít khi nào đầy đủ để gây ra một sự khác biệt. Để làm chiếc xe vận hành tốt hơn và bền bỉ hơn cần phải có một dịch vụ toàn bộ. Tương tự, yếu tố cần thiết để chúng ta có thể sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn là một sự bổ sung dinh dưỡng toàn diện chứ không chỉ riêng một chất dinh dưỡng nào.
Cần phải phân tích tình trạng dinh dưỡng cho mỗi cá nhân và từ đó phát triển một công thức dinh dưỡng cho cá nhân đó. Cố nhiên, không ai giống ai về lối sống hay cách ăn uống. Ông A có thể thiếu sinh tố E và dầu omega 3, nhưng ông B có thể thiếu sinh tố C, B12, đồng và selenium…
Phần đông dân chúng hiện nay đang thiếu một số chất dinh dưỡng và phần lớn chất dinh dưỡng này rất an toàn. Do đó, một chương trình phổ thông khuyến khích người dân tiếp nhận những chất dinh dưỡng đang thiếu này là một chiến lược có hiệu quả kinh tế cao và có thể đem lại sức khỏe cho người dân.
Nguyên nhân làm mất cân bằng dinh dưỡng
Nhiều nghiên cứu trên quy mô quốc gia (nghiên cứu lớn nhất do Bộ Nông nghiệp Mỹ tiến hành) cho thấy tình trạng kém dinh dưỡng khá phổ biến trong các nước đã phát triển. Kém dinh dưỡng ở đây không phải là thiếu calorie hay thiếu vi dinh dưỡng thường thấy trong các nước đang phát triển (suy dinh dưỡng dạng A), mà là tình trạng mất cân bằng các chất vi dinh dưỡng dẫn đến thừa calorie (suy dinh dưỡng dạng B).
Tình trạng suy dinh dưỡng dạng B phổ biến trong các nước đã phát triển có nhiều nguyên nhân:
Thứ nhất, cơ thể con người được “thiết kế” để sống một cuộc sống hoạt động tích cực, để tiêu thụ 3.000-4.000 calorie mỗi ngày. Ngày nay chúng ta sống một cuộc sống thiếu vận động và không cần nhiều calorie. Sự thèm khát đã suy giảm nhiều. Khi ăn ít, người ta cũng dùng ít các chất vi dinh dưỡng.
Thứ hai, phần lớn thực phẩm làm sẵn (như mì ăn liền) không chứa đầy đủ chất vi dinh dưỡng và càng ngày chúng ta càng dùng nhiều thực phẩm loại này. Ở Anh, theo một cuộc điều tra dinh dưỡng gần đây, tỉ lệ tiêu thụ rau và trái cây giảm 7% trong thời gian từ năm 2001-2002.
Thứ ba, phần lớn đất trồng trọt chứa ít chất khoáng quan trọng hay trở nên thoái hóa do trồng trọt (và lạm dụng đất) quá mức. Cây cỏ và động vật được trồng trọt hay nuôi trong môi trường này cũng thiếu chất khoáng, và điều này giải thích tại sao hàm lượng selenium trong các nước phương Tây hiện nay rất thấp.
Thứ tư, là vấn đề hút thuốc lá, tắm nắng, ô nhiễm môi trường và sử dụng quá liều lượng rượu bia, tất cả đều làm cơ thể chúng ta ngày càng trở nên suy dinh dưỡng theo độ tuổi.
TS NGUYỄN VĂN TUẤN (Úc)
Theo TTO

Bình luận (0)