|
Cô Phạm Thị Đào – giáo viên chủ nhiệm lớp 1A Trường Tiểu học Xuân Ái hướng dẫn học sinh trong tiết luyện tập toán |
Trước giờ, chúng ta vẫn nghĩ giáo dục vùng cao luôn là vùng trũng. Tuy nhiên, với mô hình học ALM (Active Learning Model), điều này không hẳn là đúng; thực tế, giáo dục vùng cao đang có nhiều thuận lợi để đổi mới phương pháp dạy học hơn ở các thành phố lớn.
Giáo viên quan tâm – lớp học sôi nổi
Cô Thạch Thị Sơn, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Viễn Sơn (Văn Yên, Yên Bái) cho hay trường chính thức đưa mô hình ALM vào giảng dạy từ năm 2007. Sau quá trình thực hiện, điều cô rút ra đó chính là giáo viên (GV) có vai trò quan trọng, quyết định sự thành công hay thất bại của bất kỳ sự đổi mới phương pháp nào. Cô Sơn cho biết, năm 2007, khi Tầm nhìn thế giới (World Vison) đưa mô hình ALM vào trường cùng với những hỗ trợ về cơ sở vật chất để phục vụ giảng dạy như tủ để đồ dùng học tập, văn phòng phẩm, cảnh quan môi trường, nhà đa năng, bếp ăn…, trường đã phải xây dựng kế hoạch rất cụ thể. Và để có được sự ủng hộ của 100% GV là không đơn giản. Trình độ GV của trường không đồng đều, dù tất cả đều đã đạt từ chuẩn trở lên. Theo đó, GV lớn tuổi có khó khăn là khó tiếp cận phương pháp mới; tuy nhiên, với GV trẻ cũng không phải là không gặp khó khăn. Bên cạnh các giáo cụ trực quan theo quy định của Bộ GD-ĐT, để áp dụng mô hình ALM thành công, GV còn phải làm thêm rất nhiều đồ dùng học tập để phục vụ giảng dạy và mỗi môn học có một đặc thù riêng. Tuy nhiên, không phải ai cũng khéo tay. Do đó, hàng tuần, tổ chuyên môn đề xuất các ý tưởng rồi các GV cùng giúp đỡ nhau làm đồ dùng. Địa bàn của xã Viễn Sơn có tới 86% học sinh là người dân tộc thiểu số. Chính vì vậy, cùng với chương trình phổ cập mầm non 5 tuổi, áp dụng mô hình ALM để dạy tiếng Việt cho học sinh lớp 1 cũng đạt kết quả rất tốt. Theo cô Sơn, thông qua các trò chơi, học sinh sẽ nhớ sâu hơn các từ. Trước kia, với phương pháp cũ, GV phải mất một học kỳ hoặc 3 tháng để học sinh thạo tiếng Việt nhưng giờ chỉ còn mất 1 tháng. Chất lượng giáo dục cũng được tăng lên đáng kể. Cô Sơn cho biết trước đây trường không có học sinh thi học sinh giỏi cấp huyện, nhưng giờ thì đã có giải. Năm học vừa qua, 54% học sinh của trường đạt danh hiệu học sinh khá giỏi; tỷ lệ học sinh yếu kém giảm đi rõ rệt.
Trong khi đó, thầy Đoàn Văn Cường, Hiệu trưởng Trường Tiểu học Xuân Ái (cùng huyện Văn Yên), cho biết trường đưa mô hình ALM vào giảng dạy từ năm 2006. Mới đầu, GV không tích cực lắm vì phương pháp cũ đã “ăn quá sâu”. Trường phải tiến hành tuyên truyền cho lãnh đạo xã, GV rồi cả phụ huynh. Thực tế, có những thầy cô tuổi cao vẫn rất nhiệt tình nhưng sức khỏe của họ không còn tốt nên có sức ì. Do đó, trường phải có lộ trình, không nóng vội, không gò ép quá nhiều cho GV. Theo thầy Cường, cũng may có sự hỗ trợ một phần của Tầm nhìn thế giới nên quá trình đổi mới diễn ra suôn sẻ và được GV ủng hộ nhiệt tình. Học sinh cũng rất khó khăn khi được học tập theo phương pháp mới. Thầy Cường nhận xét: Lớp nào thầy cô quan tâm thì lớp đó sẽ sôi nổi.
Sĩ số đông khó thực hiện
Việc áp dụng mô hình ALM tại các trường tiểu học ở Việt Nam có sự khác nhau và kết quả sẽ không đồng đều. Theo thầy Đoàn Văn Cường, cơ sở vật chất không phải là yếu tố quyết định nhưng là yếu tố hỗ trợ. Còn theo ông Nguyễn Văn Thắng, quản lý chương trình phát triển vùng Văn Yên của Tầm nhìn thế giới (hiện đang hỗ trợ 8 trường tiểu học tại Văn Yên gồm: Ngòi A, Viễn Sơn, Hoàng Thắng, Xuân Ái, Yên Thái, Yên Hưng, Yên Phú và Yên Hợp thực hiện mô hình ALM, kéo dài từ 2004 đến 2014), mô hình dạy học ALM thích hợp với những lớp học dưới 30 học sinh, chỉ chia thành 4-5 nhóm là hợp lý. Còn nếu sĩ số lớp quá đông, một GV sẽ không thể dạy được theo mô hình này. Hiện nay, chương trình Tầm nhìn thế giới đang thực hiện mô hình ALM tại 30 huyện trên cả nước với 200 trường tiểu học. Các trường này chủ yếu thuộc các tỉnh khó khăn. Còn tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM thì chỉ duy nhất quận 8 (TP.HCM) có hỗ trợ mô hình này.
Ông Trần Quốc Toản, Chuyên viên Phòng GD-ĐT huyện Văn Yên, cho hay: Mô hình ALM tương đối tiệm cận với mô hình trường học VNEN của Bộ GD-ĐT. Do đó, khi chuyển sang mô hình VNEN thì các trường đã thực hiện ALM sẽ thực hiện nhanh hơn những trường khác. Ông Toản cũng đánh giá mô hình ALM tạo cho học sinh có cơ hội để giao tiếp. Do đó, học sinh vùng dự án không khác biệt so với vùng thành thị.
Không chỉ riêng ông Thắng, các chuyên gia giáo dục đều nhận định nếu sĩ số lớp quá đông thì sẽ khó thực hiện mô hình ALM hay mô hình VNEN. Ở các trường thuộc Hà Nội và TP.HCM, nếu muốn thực hiện mô hình ALM, chắc chắn sẽ phải giãn sĩ số lớp cho hợp lý. Điều đó có nghĩa các trường sẽ phải xây thêm lớp học, tuyển thêm GV hoặc giảm chỉ tiêu tuyển sinh.
Nghiêm Huê


Bình luận (0)