Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Bảo tồn di sản: Nhìn từ câu chuyện của hát xoan

Tạp Chí Giáo Dục

 "Về nguyên tắc, phải coi bảo tồn di sản là công việc của cộng đồng, là nguyện vọng, mong muốn của cộng đồng, hết sức khả thi theo điều kiện của họ chứ không phải là ý chí hay hoài bão của bất kỳ một cơ quan quản lý nào".

 

TS Lê Thị Minh Lý: Phải coi bảo tồn là công việc của cộng đồng, là nguyện vọng, mong muốn của cộng đồng, hết sức khả thi theo điều kiện của họ chứ không phải là ý chí hay hoài bão của bất kỳ một cơ quan quản lý nào. – Ảnh: Chinhphu.vn

Tiến sỹ Lê Thị Minh Lý, Ủy viên Hội đồng Di sản Quốc gia, đồng thời là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu và phát huy giá trị di sản văn hóa (Hội Di sản văn hóa Việt Nam) đã nhấn mạnh như vậy khi trao đổi với phóng viên Báo điện tử Chính phủ xung quanh việc bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản văn hóa.
Bà vừa trở về từ Bali – Indonesia nơi hát xoan vừa được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể được bảo vệ ở cấp độ quốc tế, cảm xúc của bà khi đón nhận tin vui đó như thế nào?
TS. Lê  Thị Minh Lý: Đây là lần thứ 6 có di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được UNESCO vinh danh. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên hồ sơ của Việt Nam nhận được sự đồng thuận của tất cả thành viên của Hội đồng thẩm định.
Trong lần xem xét này của UNESCO, lúc đầu có 35 hồ sơ gửi đến, sau vòng 2 còn lại 25 hồ sơ và đến vòng 3 còn lại 11 hồ sơ. Vòng 2 – vòng thẩm định chuyên môn là vòng khó khăn nhất, quyết định 90% của sự thành công, với 6 chuyên gia độc lập và 6 tổ chức phi chính phủ về chuyên môn có trình độ quốc tế. Đây là những nhà đánh giá chuyên môn rất khách quan và rất nghiêm khắc.
Việc 100% thành viên Hội đồng thẩm định đồng thuận là trường hợp đặc biệt mà các hồ sơ của chúng ta chưa bao giờ nhận được.
Với những đánh  giá tốt như vậy, hồ sơ hát xoan khi đưa ra xem xét tại vòng 3 không có bất kỳ một ý kiến nào khác, trong khi có nhiều hồ sơ phải thảo luận rất nhiều để đưa ra quyết định cuối cùng.
Ngay tại phiên họp của Ủy ban di sản văn hóa phi vật thể, các quốc gia đều đến chúc mừng và đề nghị chúng ta chia sẻ những kinh nghiệm với câu hỏi chung là “Việt Nam có bí quyết gì để xây dựng được một hồ sơ tốt, nhận được sự đồng thuận, đánh giá cao như vậy?”.
Không như quan họ Bắc Ninh, ca Huế hay đàn ca tài tử, dường như hát xoan ít được biết đến hơn. Xin bà cho biết thêm về loại hình nghệ thuật này?
TS. Lê  Thị Minh Lý: Đúng là rất ít người biết đến hát xoan. Ví dụ, nếu đàn ca tài tử Nam bộ là loại hình nghệ thuật trình diễn khá phổ biến tại 21 tỉnh, thành phố, thì hát xoan vốn tồn tại trong cộng đồng rất nhỏ, hiện chỉ có 4 phường xoan thuộc thành phố Việt Trì, Phú Thọ. Tập quán trình diễn hát xoan là tập tục lâu đời của người dân làm nghề nông khi mùa xuân đến và chuẩn bị đón chào năm mới.
Hát xoan có lối hát thờ, hát để bày tỏ sự biết ơn đối với tổ tiên, sau này được biểu tượng hóa thành hình tượng vua Hùng, cầu mong mưa gió thuận hòa, vạn vật sinh sôi phát triển, mùa màng bội thu. Cùng với hát thờ, còn có lối hát đối đáp, giao lưu giữa nam và nữ để bày tỏ tình cảm với nhau. Trước kia, người dân ở đây có sang sông giao lưu với cộng đồng người dân bờ bên kia sông Lô nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
Về sau, tập quán này dần bị mai một vì nhiều lý do khác nhau. Điều may mắn là vào thập niên 70-80 của thế kỷ XX, nhiều nhà nghiên cứu âm nhạc dân gian đã quay trở lại với hát xoan, ghi chép, xuất bản. Từ khi đổi mới, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch bắt đầu khơi dậy lại truyền thống và tập tục hát xoan. Đặc biệt, trong những năm gần đây, khi Luật Di sản văn hóa ra đời, mọi người đã nhận thức đây là vốn quý của cộng đồng, dân tộc và cần được phục hồi.
Lúc đầu, Phú Thọ định đề cử những di tích khảo cổ học thời Hùng Vương và Đền Hùng là di sản thế giới. Nhưng việc đề cử di sản vật thể có những quy định mà những di sản trên chưa đáp ứng được. Một số nhà khoa học đã nhận thấy hát xoan là một di sản có giá trị và hoàn toàn có thể đề cử là di sản văn hóa phi vật thể được bảo vệ ở cấp độ quốc tế.
Cuối năm 2009, sau một số công việc chuẩn bị, tỉnh Phú Thọ bắt tay vào lập hồ sơ. Hồ sơ được xây dựng rất gấp, tháng 3/2010 là hạn phải nộp lên UNESCO. Đến tháng 6/2010, Ban thư ký UNESCO cho biết  hồ sơ đã qua vòng thẩm định đầu tiên nhưng còn một số điều cần chỉnh sửa và sau đó chúng tôi đã tiếp thu, xây dựng hồ sơ chi tiết, khả thi hơn.
Đầu năm 2011, chúng tôi gửi lại hồ sơ. Tháng 8/2011, Ban thẩm định đã làm việc đến tháng 11 vừa qua, tại kỳ họp của Ủy ban Di sản văn hóa phi vật thể (UNESCO) tại Bali (Indonesia), hát xoan chính thức trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp.
 

"Hát mó cá" là một làn điệu thể hiện ước vọng sinh sôi của nghệ thuật hát xoan. – Ảnh: Báo ảnh Việt Nam.

UNESCO có những tiêu chí cụ thể về di sản văn hóa phi vật thể. Vậy hát xoan được đánh giá cao nhất ở tiêu chí nào, thưa bà?

TS. Lê  Thị Minh Lý: Thứ nhất, di sản đó phải có tính giá trị. Giá trị ở đây được thể hiện ở nhiều khía cạnh, như giá trị về âm nhạc, hay những giá trị liên quan đến sự sáng tạo của con người.
Thứ hai là có giá trị lịch sử, được bồi đắp bởi các thế hệ cộng đồng khác nhau, được trao truyền, mỗi đời được sáng tạo thêm để cuối cùng hình thành di sản có tính tổng thể, vừa là hình thức âm nhạc nhưng lại gắn với tập tục, nghi lễ và nằm trong ý thức của người dân gắn với cuộc sống của họ.
Thứ  ba, trong quá trình hình thành, di sản đó đã trở thành bản sắc của cộng đồng (như là một “thương hiệu” của người địa phương) và từ đó chúng ta có thể phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác. Hát xoan chỉ có ở Phú Thọ, mặc dù có những làn điệu ca từ cách thức trình diễn giống nhau nhưng hát xoan vẫn là đặc trưng của  riêng Phú Thọ.
Thứ  tư, di sản này có ý nghĩa trong cuộc sống ngày hôm nay, bởi có rất nhiều phong tục, tập quán đã từng có trong quá khứ nhưng đến ngày nay không tồn tại được và rất khó có chỗ đứng trong xã hội.
Thứ năm, di sản đó có khả năng sống được trong cuộc sống, cộng đồng mong muốn gìn giữ và phát huy giá trị di sản ấy. Cộng đồng phải thể hiện mong muốn gìn giữ và phát huy di sản ấy phải bằng những hành động cụ thể, do chính cộng đồng xây dựng.
Thứ sáu, hồ sơ phải thể hiện được tính khoa học và cơ sở pháp lý bảo vệ di sản. Di sản đó phải được nghiên cứu khoa học, được kiểm kê và làm hồ sơ để nhân loại biết rằng di sản ấy được cộng đồng và quốc gia đó cam kết bảo vệ, giữ gìn.
Tất cả  những tiêu chí trên hát xoan đều đáp ứng được và vì vậy được đánh giá rất cao.
Bà là người trực tiếp tham gia xây dựng hồ sơ để đệ trình lên UNESCO công nhận các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam và cũng trực tiếp tham dự các kỳ họp của UNESCO. Vậy xin bà cho biết những kinh nghiệm trong việc chuẩn bị và xây dựng hồ sơ?
TS. Lê Thị Minh Lý: Việt Nam đã gửi đi 6 hồ sơ và cả 6 hồ sơ được xét đều được công nhận. Chúng tôi thấy rằng các hồ sơ đệ trình phải hết sức cụ thể, thứ hai là phải chính xác về thông tin, thứ ba là phải có tính khả thi.
Về nguyên tắc, phải coi việc bảo tồn công việc của cộng đồng, là nguyện vọng, mong muốn của cộng đồng, hết sức khả thi theo điều kiện của họ chứ không phải là ý chí hay hoài bão của bất kỳ một cơ quan quản lý nào.
Bà có thể cho biết cụ thể hơn về vấn đề này?
TS. Lê Thị Minh Lý: Trong hồ sơ đã xác định và chúng ta cũng thấy rõ, hát xoan có mấy điểm cần được lưu ý.  Những nghệ nhân biết hát xoan hiện nay còn rất ít, và đã già. Những bài xoan cổ xưa có được nhớ hết không và sẽ truyền lại cho ai. Mặt khác, hát xoan là di sản có giá trị như vậy nhưng người dân chưa hiểu và chưa nhiệt tình hưởng ứng, nhất là với lớp trẻ, trong khi hát xoan sẽ không tồn tại nếu không có công chúng.
Phú Thọ đã thu thập được gần hết các bài hát cổ của nghệ nhân, đang tìm những thế hệ kế tiếp để giữ lại. Các câu lạc bộ hát xoan đã được thành lập với những người có tâm huyết say mê để truyền lại cho thế hệ sau. Tuy nhiên, điều tôi băn khoăn là phải hỗ trợ cộng đồng như thế nào để làm sinh động những hoạt động đó, bằng những hình thức sáng tạo hơn. Tôi cho rằng cần có quảng bá trên các phương tiện thông tin đại chúng và cần được đưa vào nhà  trường.
Nhân đây, tôi cũng muốn nói thêm về một vấn đề khiến nhiều người  hiểu nhầm hoặc không thấy được trách nhiệm của mình đối với di sản. Đó là đôi khi, báo chí chỉ chú trọng khía cạnh di sản được công nhận ở tầm quốc tế mà quên mất UNESCO có hai danh sách di sản, một là di sản đại diện và hai là di sản cần được bảo vệ khẩn cấp. Với các di sản cần bảo vệ khẩn cấp, chúng ta cần phải hành động để di sản đó thoát khỏi tình trạng khẩn cấp và khi hết khẩn cấp thì chúng ta đưa vào danh sách đại diện.
Nhiều ý kiến cho rằng chúng ta phải chú trọng hơn nữa tới công tác kiểm kê di sản để có phương án bảo tồn và phát huy giá trị di sản một cách hiệu quả nhất. Ý kiến của bà về vấn đề này?
TS. Lê Thị Minh Lý: Đây là vấn đề rất quan trọng. Chúng ta cần phải biết trong rất nhiều di sản của Việt Nam thì đâu là cái quan trọng hơn, cần phải gìn giữ và phát huy trước. Xét cho cùng, di sản là của nhân loại, nhưng sẽ có ý nghĩa hơn khi cộng đồng ở chính nơi đó có trách nhiệm gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản đó.
Trước hết, muốn bảo vệ di sản cũng cần phải có đầu tư thỏa đáng. Kinh phí hàng năm cho việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thểtừ chương trình mục tiêu chỉ đủ giao cho các Viện nghiên cứu và chưa có được phần đáng kể cho người dân trao truyền, bảo vệ di sản. Chúng ta cũng cần chú trọng đến kiểm kê di sản và UNESCO cũng khuyến nghị điều này.
Hiện nay, chúng ta đã nộp hồ sơ lên UNESCO để công nhận tín ngưỡng thờ Hùng Vương và đàn ca tài tử Nam bộ là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong danh sách đang trình Chính phủ sắp tới còn có ví dặm (của Nghệ Tĩnh), tranh Đồng Hồ (Bắc Ninh), múa Thái, hát Then (của người Tày).
Bên cạnh đó còn có nghi thức thổ canh hốc  đá (một kỹ thuật canh tác nông nghiệp, nằm trong nhóm mà UNESCO gọi là tri thức dân gian), nghệ  thuật hát chầu văn, nghề làm gốm (người Chăm)…
Tuy nhiên, tôi cũng muốn nhắc lại một lần nữa rằng vấn đề là bảo vệ di sản để di sản sống hữu ích với cộng đồng chứ không chỉ là danh hiệu.
Bà có nhận định thế nào về những mâu thuẫn đôi khi vẫn có giữa bảo tồn di sản và phát triển du lịch?
TS. Lê Thị Minh Lý: Di sản là một tài nguyên của du lịch và du lịch không thể thiếu di sản. Bài toán đặt ra là người làm du lịch và  người bảo vệ di sản phải luôn song hành và làm việc với nhau để đưa ra những quyết định, thậm chí phải thỏa hiệp vì có những di sản không thể phát triển du lịch được, đặc biệt là những di sản liên quan đến cộng đồng nhỏ và đời sống tâm linh.
Ví dụ, khi Hội Gióng được công nhận thì  nhiều người ngay lập tức nghĩ tới việc khai thác du lịch. Nhưng Hội Gióng là nghi lễ của một cộng đồng nhỏ và nghi lễ ấy chỉ thực sự có giá trị khi bản thân cộng đồng ấy thực hành theo đúng nghĩa của họ. Còn nếu như họ đã ý thức rằng họ đang thực hành để phục vụ du lịch thì câu chuyện ấy lại khác. 
Du lịch là ngành công nghiệp không khói đem lại lợi nhuận rất nhiều cho đất nước cho cộng đồng và bên cạnh mặt được cũng có những mặt không tích cực. Cần phải có sự hài hòa trong phát triển du lịch và trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản.
Xin trân trọng cảm ơn bà!
Theo Mai Chi
 

(Chinhphu.vn)

Bình luận (0)