Bài thơ Haiku của Basho được viết bằng thư pháp Việt. Ảnh: Minh Hoàng
|
Thơ Haiku của Nhật Bản tựa như một đường cọ phác họa, chấm phá đơn sơ nhưng đầy nội tâm của nhà thơ, có sức ám thị mạnh mẽ, chứa một khả năng vô hạn. Nó đã thực sự trở thành “bức tranh” thiền diễm tuyệt nhờ vào sự xuất thần của các thi gia…
Xứ sở Phù Tang đã sản sinh ra một phong cách rất đặc biệt trong thơ ca Nhật Bản. Đó là những thi phẩm thuộc thể thơ Haiku – một thể thơ vừa giản dị nhất, vừa thâm trầm nhất – luôn là tiếng hát bất tuyệt về cuộc đời và thiên nhiên.
“Thể thơ nhỏ gọn nhất thế giới”
Haiku là thể thơ nổi tiếng nhất của Nhật Bản và được mệnh danh là “thể thơ nhỏ gọn nhất thế giới”. Toàn bài chỉ với 17 âm tiết, có thể xếp thành ba câu (5, 7, 5). Trong tiếng Nhật, thơ Haiku không gieo vần, không đối và cũng thường không có nhan đề. Haiku theo chữ Hán Việt là Bài cú (nghĩa là câu nói/ viết để trình bày và diễn đạt). Khi ta đã quen với thơ ca các nước khác thì thơ Haiku quả là một cái sốc. Bởi lẽ, nó không hơn gì một câu thơ tản mác, rời rạc, đánh thức những dự kiến không trọn đủ. Ví như vần thơ sau đây của thi hào Basho qua bản dịch của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu dịch Tịch liêu/ Thấu xuyên vào đá/ Tiếng ve kêu. Basho đã mượn âm thanh mạnh và sắc của tiếng ve để thể hiện niềm cô tịch của thiên nhiên và tiếng ve ấy đã tác động vào đá, rõ ràng mọi sự vật đều có sự dung chứa lẫn nhau. Đó là thông điệp của bài thơ. Không là những vần thơ trau chuốt, cầu kì, cho con chữ vang dội… mà là sự ít nói, giản dị đến bất ngờ, trống nhưng không đầy, theo tinh thần bất dục doanh (không muốn đầy) của minh triết ngày xưa. Điều đó, khiến thơ Haiku mang một phong cách, một đức tính nghệ thuật đặc biệt, hiếm hoi nhất, đức tính ấy là biết buông lời và biết dừng lại. Như thiền sư Daisetz Suzuki đã nói: “Khi tình cảm đã đạt đến mức độ cao nhất, ta lặng thinh, bởi lẽ không có ngôn ngữ nào diễn tả thích đáng. Ngay 17 vần trong thơ Haiku cũng quá dài”.
Haiku không chỉ phải diễn tả trong 17 âm tiết, mà nó còn phải chịu một số giới hạn cổ truyền khác của đề tài. Thơ diễn tả sự hài hòa của mùa màng trong năm, và đây là những chủ đề chính quen thuộc – bông hoa, cây cối, côn trùng, thú vật, hội hè và phong cảnh. Giáo sư R.H.Blyth nói: “Haiku không phải là thơ, cũng không phải là văn chương mà nó là bàn tay vẫy gọi, là cánh cửa hé mở, là tấm gương trong sáng. Đấy là con đường trở về với thiên nhiên, với ánh trăng hoa đào…”. Thật vậy, những thi phẩm Haiku dường như không hẳn là nghệ thuật mà đó là thiên nhiên – một bức tranh thiên nhiên có sức dẫn khởi đặc biệt.
Vươn xa ngoài biên giới Nhật
Với bản chất vốn giản dị, thâm sâu, thơ Haiku dường như đã có duyên ngầm với chất thiền vị. Một triết gia của Nhật cho rằng: “Nghệ thuật là sự rung cảm, sự phập phồng nhịp nhàng theo vận tiết của vũ trụ”. Thật vậy, thơ Haiku đã làm được điều đó. Đằng sau sự hiện hữu của nét đẹp nguyên sơ tự nhiên là bao hàm cả một tư tưởng, một triết lý, một kinh nghiệm sống. Và chính thơ của Basho – “một biến cố vĩ đại trong lịch sử Nhật Bản” đã nâng Haiku lên đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật. Ba thế kỉ trôi qua kể từ ngày Basho mất. cũng như Goethe là Đức, Tagore là Ấn Độ, Hafiz là Ba Tư, Nguyễn Du là Việt Nam… Basho là Nhật Bản. Basho (Ba Tiêu) có nghĩa là cây chuối và ông đã lấy nó làm bút hiệu cho mình. Ở Nhật, cây chuối không có trái, nhưng Basho rất yêu nó. Basho là một con người thanh thản tắm mình trong biển thiền. Mỗi vần thơ ông viết đều ngát làn hương thiền vị. Basho đã làm cho thế giới thơ ca chấn động vì cái nhảy của một con ếch, qua bài thơ Ao cũ: Ao cũ/ Con ếch nhảy vào/ Vang tiếng nước xao. Tâm trạng này giống như nghệ thuật mặc hội của Nhật Bản: Một khoảnh khắc phóng cọ, nét cọ dừng thế là hoàn thành tác phẩm. Khoảnh khắc ấy là vô tâm, siêu việt ý thức, vượt lên trên mọi sắp đặt. Đó cũng là kết quả của quá trình rèn luyện tâm và thân, tâm và thân là một! Thế nên người Nhật mới gọi đó là “đạo” – hài cú đạo (Haikudo). Basho qua đời, nhưng con đường ông đi vẫn không mất dấu chân. Và những tên tuổi khác lần lượt tiếp bước, vẫn với một thiền vị tuyệt vời như: Issa, Chora, Shiki, Buson…
Thơ Haiku cũng đã vươn xa ngoài biên giới Nhật. Thơ ca phương Tây, trong những tìm kiếm và thể nghiệm của mình, đã nhiều lần đi theo phong thái Haiku. Vì vậy, chẳng có gì ngạc nhiên khi ta đọc nhiều bài thơ Haiku trong các ngôn ngữ khác nhau của những thi hào như Rilke (Đức), Eluard (Pháp), Seferis (Hi Lạp), Machdo (Tây Ban Nha), Tablada (Mehico), Virgilio (Mỹ)… Ở Việt Nam ta, hằng năm cũng đã tổ chức các cuộc thi viết thơ Haiku, như một thể nghiệm mới của dòng văn học Việt. Dòng thơ Haiku độc đáo đã thật sự chinh phục thế giới, và đã mang tâm hồn Nhật Bản, mang những cánh hoa anh đào nơi xứ sở Phù Tang gieo rắc lên mọi trái tim thiết tha yêu cuộc sống.
ThS. Nguyễn Hiếu Tín
Nhà thơ Pháp Plaul Valéry từng nói: “Tôi viết nửa bài thơ. Người đọc viết phần còn lại”. Điều đó đúng với mọi bài thơ hay và đặc biệt xác đáng đối với thơ Haiku. Đọc Haiku là viết tiếp Haiku. Một bài thơ Haiku có thể chứa ba chiều của vũ trụ, còn chiều thứ tư để dành cho người đọc. |
Bình luận (0)