|
Một tiết dạy môn GDCD của thầy Trần Tuấn Anh – GV Trường THCS Bạch Đằng (Q.3) có đầy đủ các hình ảnh minh họa. Ảnh: T.Tri |
Việc đưa thực tế đời sống vào bài giảng giáo dục công dân (GDCD) thực sự là vấn đề sống còn của phương pháp giảng dạy bộ môn này. Sự thật không giáo viên nào dạy GDCD lại xa rời phương pháp này. Song trong thực tế điều dễ nhận thấy ở những giờ dạy chưa thành công trong việc liên hệ thực tế rơi vào các lỗi sau:
Thứ nhất, những kiến thức liên hệ còn bị gò ép, khiên cưỡng thiếu phù hợp, có khi thiếu cả tính chân thực lịch sử. Thứ hai, những dẫn chứng liên hệ nhiều nhưng không tinh, không có tính điển hình phổ biến. Giáo viên ham kể, ham trưng những mẩu chuyện, những hình ảnh xa xôi lạ lẫm, xem thường bỏ qua những dẫn chứng gần gũi, thân quen giàu tính thực tế khiến tính thuyết phục bị mất đi nhiều. Thứ ba, các dẫn chứng liên hệ không được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, mang nặng tính minh họa chứ không phải tồn tại đúng theo nghĩa là một phương pháp giảng dạy. Đúng ra những dẫn chứng phải được sử dụng như một phương tiện trọng yếu để hướng học sinh tự mình đi đến nhận thức khái niệm một cách tự nhiên, sâu sắc thì ngược lại nhiều giáo viên chủ yếu lại dựa vào sách giáo khoa cho các em phát biểu nội dung khái niệm trong sách, sau đó mới giảng giải rồi cùng các em dẫn chứng liên hệ một cục. Thứ tư, các dẫn chứng liên hệ được các giáo viên thông báo một cách khô khan đơn điệu, ít được sinh động hóa bằng hình ảnh cụ thể giàu tính thực tiễn và giáo dục; bằng những mẩu chuyện hấp dẫn với cách kể đầy sức lôi cuốn kèm theo những lời phân tích giảng giải ngắn gọn xúc động, khiến chúng có xác mà không có hồn. Học sinh ngồi nghe rồi lại quên ngay. Không một chút hưng phấn, không một sự tò mò nào thức dậy được trong các em thì làm sao những tiềm thức đạo đức công dân trong các em có thể được lóe sáng, được định hình. Thứ năm, các dẫn chứng liên hệ thực tế chưa được chú ý khêu gợi, phát huy từ phía học sinh. Nhu cầu tự bộc lộ những chính kiến, suy nghĩ, băn khoăn, thắc mắc của các em hầu như mới được thực hiện một cách hạn chế. Các dẫn chứng liên hệ do vậy chưa phong phú đa dạng, chưa rộng, chưa sâu, chưa tạo được sự bất ngờ sinh động, sự rung cảm trong nhận thức về mối tương giao giữa lý thuyết và thực tế từ thẳm sâu tâm can học trò. Nói cách khác, trong trường hợp này vai trò chủ thể của việc liên hệ thức tế vẫn thuộc về các thầy cô chứ chưa phải các em. Thứ sáu, các dẫn chứng chưa được liên hệ trình bày với một tâm thế nồng cháy mà còn dừng ở mức thông báo lạnh lùng nên đã không tạo được chất men kích thích thuyết phục hưng phấn trong lòng học sinh. Những dẫn chứng đó có khi quá tả có khi lại quá hữu khiến học sinh phần nào bối rối, lũng đoạn niềm tin trước thực tế cuộc sống đầy phức tạp đang hiện hình trong thế giới nhận thức còn chơi vơi của các em. Từ đây một vấn đề đặt ra cho chúng ta là: Khi đưa các dẫn chứng liên hệ cần hết sức tránh sự thiên lệch tả hữu, một chiều, né tránh sự thật. Và bao giờ chúng ta cũng phải biết lý giải rõ ràng, khoa học, chân thành không được phép thờ ơ, càng không được phép “lập lờ đánh lận con đen”.
NGƯT NGUYỄN NGỌC KÝ


Bình luận (0)