Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…

Sách “Đại Nam liệt truyện”, bộ sách lịch sử ghi chép về gia phả triều Nguyễn, chép về Nguyễn Công Trứ như sau: “Công Trứ là người trác lạc, có tài khí, có tài làm văn, càng giỏi về quốc âm, làm ra thi ca rất nhiều, đến nay hãy còn truyền tụng. Trứ làm quan thường bị bãi cách rồi được cất nhắc lên ngay; tỏ sức ở chiến trường nhiều lần lập được công chiến trận. Buổi đầu Trứ lĩnh chức doanh điền, sửa sang, mở mang ruộng đất, tụ họp lưu dân, thành ra mối lợi vĩnh viễn. Khi tuổi già về nghỉ, tức thì bỏ qua việc đời, chơi thú sơn thủy. Sau khi Trứ mất, các huyện ấp do ông lập ra đều đựng đền để thờ”.
Tổng kết cuộc đời làm quan đầy thăng trầm của mình, Nguyễn Công Trứ khái quát trong mấy câu hát nói: “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung/ Trong triều ai ngất ngưởng như ông” (Bài ca ngất ngưởng).
Từ lúc chào đời cho đến chết vẫn cứ… ngông!
Ngày mồng một, tháng mười một, năm Mậu Tuất (1778), Nguyễn Công Trứ chào đời. Người xưa nói “trai mồng một, gái hôm rằm” (ý nói trai, gái sinh vào ngày này thường khó nuôi và bướng bỉnh) quả không sai. Giai thoại kể lại, vừa lọt lòng mẹ, cậu bé Củng (tên húy Nguyễn Công Trứ từ nhỏ) đã tỏ ngay sự ngông bướng bằng cách không thèm khóc như những đứa trẻ sơ sinh khác. Người nhà và hàng xóm đưa hết nồi đồng, mâm thau đến khua gõ liên hồi, cậu cũng mặc. Chỉ đến khi cả đám người lớn đã mỏi rã rời thì cậu mới cất tiếng khóc oang oang như tiếng chuông đồng.
Thuở trẻ, Nguyễn Công Trứ thi hỏng nhiều lần, nhưng ông tin vào tài mình. Khi vua Minh Mạng mở khoa thi, ông làm tờ “tự tiến cử” xin vào thi và nói thẳng mình “có tài kinh bang tế thế”. Thi đỗ xong, Nguyễn Công Trứ làm quan (“không ngồi bàn giấy”) và giữ nhiều chức quan trọng, khai khẩn ruộng đất, lập nên hai huyện Tiền Hải, Thái Bình và Kim Sơn, Ninh Bình trước đây. Nhờ chính sách khuyến khích “ai khai khẩn thì được cấp đất”, chỉ vài năm đã có hàng chục ngàn mẫu ruộng mới, dân nghèo có chỗ làm ăn. Vì vậy, dân gian vẫn truyền câu ca: “Công đức ông Nguyễn Công Trứ/ Mở đất Tiền Hải, Kim Sơn muôn đời”. Và một hiện tượng hiếm có trong văn hóa tâm linh người Việt, Nguyễn Công Trứ được người dân Kim Sơn và một số nơi lập đền thờ (sinh từ) ngay khi ông đang còn sống.

Khi “nhập thế” (theo Khổng giáo) lập công lưu danh, Nguyễn Công Trứ đã để lại danh ngôn mà nhiều thế hệ học trò học làm khí tiết: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” (Đi thi tự vịnh). Khi “xuất thế” theo Đạo giáo, thì nhìn ra “núi nọ phau phau mây trắng”, không màng được mất “khen chê phơi phới ngọn đông phong” (Bài ca ngất ngưởng). Ngay cả khi chua chát nhìn lại đời mình, Thượng Uy Viễn vẫn là người đầy khí phách: “Kiếp sau xin chớ làm người/ Làm cây thông đứng giữa trời mà reo”.
Năm 1858, đời vua Tự Đức năm thứ 11, thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam, tấn công Đà Nẵng. Nguyễn Công Trứ khi đó đã 80 tuổi nhưng vẫn xin vua cho đi đánh giặc. Ông mất vào năm ấy. Cho tới tận khi chết, Nguyễn Công Trứ vẫn cứ ngông. Tương truyền, trước khi “tiếp tục cuộc chơi bất tuyệt ở thế giới bên kia”, Nguyễn Công Trứ đã dặn con cháu không nên bày biện tang lễ tốn kém, mà cứ để ông nằm nguyên trên chõng như khi đang ngủ, thả xuống huyệt là xong! Nhưng chắc vì lễ hiếu con cháu đã… không dám nghe theo lời.
“Tương tư – ngông” kiểu Nguyễn Công Trứ
Người mắc “bệnh tương tư” nhiều có lẽ là Nguyễn Bính, khi người ta hay nhắc đến thơ ông: “Nắng mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Nhưng tương tư mà trở thành bệnh “kinh niên” có thể kể là Xuân Diệu. Song ít ai biết rằng, “bệnh” này đã có từ lâu đời, trong các nhà nho xưa như Tú Xương, Tản Đà, Cao Bá Quát… Có điều các nhà nho bản lĩnh và có “cốt cách hiên ngang” (chữ Hoài Thanh) hơn các nhà Thơ mới. Nguyễn Công Trứ cũng vậy, cũng rất tương tư theo cách ngông của ông. Thử đọc lại bài này: “Tương tư không biết cái làm sao/ Muốn vẽ mà chơi, vẽ được nào/ Khi đứng khi ngồi khi nói chuyện/ Lúc say lúc tỉnh lúc chiêm bao/ Trăng soi trước mặt, ngờ chân bước/ Gió thổi bên tai, ngỡ miệng chào/ Một nước một non, người một ngả/ Tương tư không biết cái làm sao” (Tương tư). Quả thật rất “hiên ngang”, hiện đại. Hoặc trong bài “Bỡn nhân tình”, ông viết: “Tau ở nhà tau, tau nhớ mi/ Nhớ mi nên phải bước chân đi/ Không đi mi nói: răng không đến?/ Đến thì mi nói: đến làm chi…”. Đây là một cách “đùa” tình, “vờn” tình thân mật như là một thú tao nhã của các nhà nho xưa.
| Nguyễn Công Trứ (1788-1858), tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, lấy biệt hiệu là Hi Văn; là nhà chính trị, nhà quân sự và nhà thơ Đại Nam thời nhà Nguyễn. Ông làm quan qua các đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức. Ông nổi bật về việc khai hoang, mộ dân ở trung châu miền Bắc Việt Nam, và lập nhiều chiến công trong việc đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống triều đình và trong chiến tranh Việt – Xiêm (1841-1845)… |
Nguyễn Công Trứ là người đào hoa, mê hát ả đào, ông viết nhiều bài ca trù đa tình. Nếu Xuân Diệu sau này cho là “kẻ đa tình không cần đủ thịt da”, dĩ nhiên là bằng lý thuyết. Thì Nguyễn Công Trứ đa tình thực hơn, năm 73 tuổi ông cưới vợ. Khi cô dâu hỏi tuổi, ông trả lời hài hước “năm mươi năm trước, anh hai ba” (ngũ thập niên tiền, nhị thập tam).
Ngông mà không nổi loạn: “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”
Ngông nhưng không đả phá, không nổi loạn; ngông mà chuẩn mực, giữ cốt cách “thiện căn” (chữ Nguyễn Du) là cốt lõi tư tưởng ngông của Nguyễn Công Trứ.
Giai thoại kể, khi cụ Trứ đã về hưu nhưng vẫn được nhân dân hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn nhớ ơn khẩn điền nên lập đền thờ cụ rồi rước cụ từ quê Hà Tĩnh ra chơi. Có một viên thị vệ thấy thế, bèn bịa đặt mật tâu về Kinh là cụ Trứ đang tìm cách thu phục nhân tâm, có ý mưu đồ làm phản. Nhà vua vội vàng cho triệu cụ vào Kinh để tìm cớ trừ “hậu họa”. Tuy nhiên, khi tỉnh táo suy xét lại, triều đình cũng hiểu được rằng đó chỉ là những lời đồn xằng bậy, xấu xa.
Tương truyền, lúc cụ đã vượt hàng ngàn dặm về Kinh, vua Tự Đức mời cụ vào diện kiến để cụ giãi bày tâm sự cho rõ thực hư. Nhà vua hỏi Nguyễn Công Trứ: “Ở hạt Tiền Hải và Kim Sơn dân tình làm ăn thế nào?”. Nguyễn Công Trứ tâu rằng: “Thưa bệ hạ, dân hai huyện ấy làm ăn rất là vui vẻ, ngày thì chăm lo cày cấy, tối về đập lúa ca hát, thật đúng là cảnh “muôn dân trăm họ, thái bình âu ca”. Họ thường đặt ra những câu hát đố rất là thú vị để hát đối đáp với nhau”. Vua sốt ruột hỏi: “Như những câu gì, có thể đọc cho trẫm nghe được không?”. “Tâu bệ hạ, chẳng hạn như câu này: “Đem thân cho thế gian ngồi/ Rồi ra mang tiếng con người bất trung””. Vua hỏi là cái gì, cụ Trứ đáp họ bảo đấy là cái phản. Vua Tự Đức lại hỏi còn câu gì hay nữa không. Nguyễn Công Trứ đáp còn câu này cũng hay lắm: “Ngay lòng ở với nước nhà/ Người dù không biết trời đà biết cho”. Vua lại hỏi là cái gì. “Tâu bệ hạ, họ giảng đấy là cái máng nước”, cụ Trứ đáp.
Vua Tự Đức biết ẩn ý của cụ Trứ ám chỉ việc mình bị vu oan và trách triều đình không biết xét việc minh bạch có trước có sau, nên tìm lời an ủi rồi cho cụ Trứ trở về nguyên quán ở Hà Tĩnh an nhàn.
Trần Ngọc Tuấn

Bình luận (0)