Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Cần thay đổi trong giảng dạy văn chương đồng tính

Tạp Chí Giáo Dục

Từng được xem là đề tài cấm kỵ, văn chương về đề tài đồng tính, đến nay đã có vị trí nhất định trong bức tranh văn học Việt, mặc dù đó là vị trí chưa đúng mức so với giá trị nghệ thuật lẫn giá trị xã hội mà nó dung chứa.

Xuất hiện khá muộn so với thế giới, tác phẩm văn học đồng tính đầu tiên tại Việt Nam thường được “xác định” cho bài thơ “Tình trai” của Xuân Diệu ở miền Bắc, và tiểu thuyết “Khung rêu” (1969) của Nguyễn Thị Thụy Vũ ở miền Nam. Tuy vậy, chỉ khoảng chừng trên dưới 15 năm trở lại đây, đề tài đồng tính mới được giới sáng tác văn học khai thác mạnh mẽ; thậm chí có lúc trở thành làn sóng, là “mốt” thời thượng trong sáng tác. Những tên tuổi được nhắc đến nhiều có thể đến như Bùi Anh Tấn, Vũ Đình Giang, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Thơ Sinh, Nguyễn Ngọc Thạch…

Trong bối cảnh sự đấu tranh cho quyền bình đẳng của giới tính thứ ba được phổ rộng ở cấp độ toàn cầu, văn chương đồng tính sẽ còn có những bước tiến mới trong tương lai. Còn hiện tại, văn chương đồng tính đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Những định kiến xã hội trở thành những khung giới hạn quy định những nhận thức về văn chương đồng tính là một sự thật chúng ta dễ dàng nhận thấy. Trong không gian giảng đường, có một chi tiết rất cần lưu ý là định kiến về giới không chỉ tồn tại trong thái độ tiếp nhận của những sinh viên là người dị giới mà còn cả trong tư duy của những người giảng dạy là người dị giới. Không phải giảng viên là người dị giới nào cũng hoàn toàn hiểu rõ về những kiến thức xung quanh khái niệm LGBT, từ đó dẫn đến việc không thiện cảm với LGBT literature. Họ gạt LGBT literature khỏi bức tranh văn học.

Để công tác giảng dạy văn học đồng tính phát triển cần có những thay đổi cả từ phía người dạy và người học, trong đó thay đổi căn bản là thay đổi về mặt tư duy, nhìn nhận vấn đề. Chỉ khi thấu hiểu đúng đắn về LGBT, chúng ta mới có được những nhận thức đúng đắn về văn học đồng tính, cho dù bản thân chúng ta là đồng tính hay dị giới.

Vậy nên, giảng dạy văn học đồng tính có thể xem là một kênh thông tin để tuyên truyền về chống bất bình đẳng giới (trong đó có LGBT); và ngược lại, đẩy mạnh tuyên truyền về chống bất bình đẳng là để rộng đường cho việc tiếp nhận văn học đồng tính. Áp dụng các thuyết phê bình mới trong việc tìm hiểu, phân tích các tác phẩm văn học đồng tính cũng là một hướng đi khả dĩ.

Văn học đồng tính phản ánh phần nào đời sống vốn dĩ còn nhiều bí ẩn của cộng đồng LGBT. Đó có thể là những mảng màu tươi sáng nhưng cũng có thể là góc khuất ảm đạm, phức tạp. Vì vậy, cần hướng đến khai thác những yếu tố xã hội lành mạnh, khơi mở những tính chất văn hóa, nhân văn trong các tác phẩm văn học đồng tính.

Cuối cùng, cũng không kém phần quan trọng, rất cần chỉ ra những hạn chế nhất định trong các tác phẩm văn học đồng tính, cả về mặt nhận thức lẫn nghệ thuật. Tránh tạo nên những ấn tượng không thiện cảm về cộng đồng LGBT nói chung và văn học đồng tính nói riêng.

Trn Xuân Tiến
(Trưng ĐH Văn Hiến)

Bình luận (0)