Y tế - Văn hóaSức khỏe đời sống

Cảnh giác với những cơn đau lưng

Tạp Chí Giáo Dục

Đau lưng không chỉ do tổn thương cấu trúc thắt lưng mà còn là biểu hiện các bệnh sỏi, nhiễm trùng thận, u xơ, viêm loét…
Bác sĩ Trần Quốc Khánh, Bệnh viện Hữu Nghị Việt – Đức, Hà Nội, cho biết mọi người đều từng bị đau lưng. Phần lớn các cơn đau lưng do tổn thương một hoặc nhiều thành phần cấu trúc của cột sống thắt lưng Hay gặp nhất là thoái hóa các đĩa đệm, thoát vị đĩa đệm, trượt thân đốt sống, viêm khớp cùng chậu, các khối u cột sống, loãng xương… Tổn thương các cơ quan ở trong bụng hoặc tiểu khung cũng gây nên tình trạng đau lưng. Nếu chúng ta không lưu tâm và khám toàn diện thì nguy cơ bỏ sót những tổn thương này.
"Tổn thương trong ổ bụng đầu tiên gây đau lưng là sỏi thận – sỏi niệu quản", bác sĩ Khánh cho biết. Thận là cơ quan hình hạt đậu nằm ở hai bên của cột sống. Khi nước tiểu có nồng độ cao khoáng chất và muối, sỏi sẽ hình thành. Sỏi thận không phải lúc nào cũng gây đau, tuy nhiên khi sỏi to gây tắc nghẽn hoặc khi sỏi di chuyển trong thận, đi qua niệu quản, chúng sẽ gây đau lưng rõ rệt. Đặc điểm của cơn đau sỏi thận, niệu quản bao gồm đau lệch một bên cột sống, đau cơn kèm buồn nôn, vã mồ hôi, lăn lộn hoặc đau tức âm ỉ tăng dần, có thể kèm theo tiểu máu. Bệnh nhân cần chụp X-quang hoặc chụp cắt lớp vi tính ổ bụng, hệ tiết niệu để kiểm tra.
Đau lưng cũng là biểu hiện thận bị nhiễm vi khuẩn. Nhiễm trùng do vi khuẩn xâm nhập vào niệu đạo từ đường ruột và ngược dòng đi lên bàng quang, thận, hoặc từ dòng nước tiểu bị tắc vì sỏi thận, khối u hoặc các vấn đề đường tiết niệu khác. Nhiễm trùng thận có thể gây viêm và đau tức ở hai bên lưng, tùy thuộc vào thận nào bị nhiễm trùng. Các triệu chứng khác bao gồm sốt, cơ thể nhiễm trùng, tiểu đục, tiểu buốt.
Đau lưng cũng cảnh báo tình trạng u sau phúc mạc, u xơ tử cung. U sau phúc mạc là khối u bất thường xuất hiện giữa khoang ổ bụng và cột sống lưng (sau phúc mạc), thường gây đau lưng hoặc kèm theo đau bụng. U sau phúc mạc có thể bắt nguồn từ bào thai, có thể là u thần kinh nội tiết, u lym pho bạch huyết, u tế bào mầm, hoặc khối ung thư di căn. U xơ tử cung là khối u đặc và thường lành tính, phát triển trên thành tử cung. Một số bệnh nhân bị u xơ không gặp bất kỳ triệu chứng nào, một số khác có thể bị đau lưng dưới, kinh nguyệt bất thường, rong kinh rong huyết hoặc đi tiểu thường xuyên.
Lạc nội mạc tử cung là tình trạng bệnh lý phụ khoa có thể dẫn đến đau lưng thấp. Bệnh xảy ra khi nội mạc tử cung, mô tế bào tử cung phát triển bên ngoài tử cung, phổ biến nhất là ở trong buồng trứng và ống dẫn trứng, dẫn đến đau lưng thấp, không thường xuyên nhưng dữ dội và vật vã. Nguyên nhân của lạc nội mạc tử cung vẫn đang được nghiên cứu.
Đau thắt lưng cảnh báo nhiều bệnh lý.
Đau thắt lưng cảnh báo nhiều bệnh lý. 
Đau lưng còn là biểu hiện của các bệnh viêm như viêm loét đại tràng, viêm ruột thừa, viêm tụy. 
Viêm loét đại tràng là một tổn thương mạn tính dẫn đến tình trạng viêm và loét chủ yếu ở ruột già, còn gọi là đại tràng. Các triệu chứng của viêm loét đại tràng bao gồm đau lưng và đau bụng, có thể được cảm nhận ở một hoặc cả hai bên của cơ thể, kèm tiêu chảy, đau trực tràng và gầy sút cân. Hiện chưa rõ nguyên nhân gây viêm loét đại tràng, nhưng một số yếu tố di truyền và môi trường có thể đóng một phần vai trò gây bệnh. 
Tình trạng viêm phổ biến khác có thể gây đau lưng thấp là viêm ruột thừa. Vì ruột thừa nằm ở phía dưới bên phải của bụng, đau từ viêm ruột thừa thường cảm thấy ở phía bên phải của bụng và lưng thấp. Các triệu chứng viêm ruột thừa kèm theo bao gồm sốt, cơ thể nhiễm trùng, hơi thở hôi, ấn vào vùng hố chậu bên phải đau tăng. Viêm ruột thừa là một cấp cứu ngoại khoa, cần được mổ ngay, tránh ruột thừa vỡ gây nhiễm trùng khắp ổ bụng, sốc nhiễm trùng, tử vong.
Viêm tụy gây đau lưng dưới. Tuyến tụy là một tuyến nhỏ, nằm vắt qua cột sống lưng, giúp tiêu hóa và điều hòa lượng đường trong máu. Viêm tụy có thể cấp tính (ngắn hạn) hoặc mạn tính (dài hạn) và có thể gây đau bụng trên lan rộng đến lưng dưới, cũng như sốt, buồn nôn và ói mửa. Đây là một trong những bệnh lý tiêu hóa phức tạp, tiên lượng nặng với những bệnh nhân viêm tụy cấp.
NT (theo khoahoc.tv)

Bình luận (0)