Trong bối cảnh kinh tế thị trường ngày càng phát triển, công tác giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành một trong những mục tiêu chiến lược của TP.HCM. Với những chính sách và giải pháp đột phá, TP đã từng bước xây dựng cơ sở đào tạo đáp ứng nhu cầu lao động của doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đồng thời, công tác giải quyết việc làm cũng được chú trọng nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững về kinh tế và xã hội.
Phối hợp dự báo – đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là nhiệm vụ trọng tâm của TP.HCM, nhất là trong bối cảnh TP cần nhiều lao động có tay nghề cao để phục vụ cho các ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghệ cao, chế tạo và y tế. Ông Lê Văn Thinh – Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội TP.HCM nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định đúng bậc học trong hệ thống khung trình độ quốc gia Việt Nam, từ sơ cấp đến sau đại học, để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.
Ông Thinh cũng cho rằng sự cần thiết của việc quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp sao cho vừa đảm bảo về số lượng, vừa đáp ứng yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực. Đồng thời, công tác đào tạo nghề cũng cần phải gắn kết chặt chẽ với các doanh nghiệp trong và ngoài nước để giúp người lao động dễ dàng tiếp cận việc làm sau khi tốt nghiệp.
Ban Quản lý Khu Công nghệ cao TP.HCM cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là trong việc phối hợp với các sở, ngành và địa phương để định hướng, dự báo nhu cầu lao động. Điều này không chỉ giúp thành phố chủ động trong việc cung ứng nguồn nhân lực mà còn giúp các doanh nghiệp trong Khu Công nghệ cao và các khu chế xuất – khu công nghiệp khác có cơ hội tuyển dụng lao động phù hợp.
Bên cạnh đó, các cơ sở đào tạo nghề cũng cần được hỗ trợ trong việc kết nối với doanh nghiệp để xây dựng các chương trình đào tạo sát với nhu cầu thực tế của thị trường. Đồng thời, TP.HCM cần tăng cường thêm các chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp trong công tác đào tạo và cấp chứng chỉ nghề, giúp người lao động nâng cao kỹ năng và đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động quốc tế.
Không chỉ tập trung vào đào tạo, TP.HCM còn đặc biệt quan tâm đến việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, nhất là những lao động làm việc trong các khu công nghệ cao, khu chế xuất và khu công nghiệp. Ban Quản lý Khu Công nghệ cao đã phối hợp chặt chẽ với Liên đoàn Lao động TP.HCM và các đoàn thể chính trị – xã hội để đảm bảo môi trường làm việc thuận lợi nhất cho công nhân, giúp họ gắn bó lâu dài với nghề nghiệp.
Trong bối cảnh cạnh tranh lao động toàn cầu ngày càng khốc liệt và xu hướng chuyển đổi số diễn ra mạnh mẽ, TP.HCM đang đứng trước những yêu cầu cấp bách về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Công tác giáo dục hướng nghiệp và đào tạo nghề phải tiếp tục đưa ra sức mạnh với những chương trình đào tạo chuyên sâu và gắn liền với thực tiễn.
Bên cạnh đó, TP cần tiếp tục tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp mũi nhọn như công nghệ cao, y tế và chế tạo. Đây chính là nền tảng để TP.HCM không chỉ đáp ứng nhu cầu lao động hiện tại mà còn chuẩn bị cho tương lai, giữ vững vị trí là trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước, hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu.
Giải quyết việc làm – tìm đầu ra cho nhân lực qua đào tạo
Theo Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, trong 9 tháng đầu năm 2024, TP.HCM đã đạt được những kết quả tích cực trong công tác giải quyết việc làm. Các thành phần kinh tế trên địa bàn TP đã giải quyết việc làm cho 27.782 lượt người trong tháng 9, nâng tổng số lao động được giải quyết việc làm lên 249.119 lượt người, đạt 83% so với kế hoạch đề ra cho cả năm. Điều này cho thấy sự nỗ lực của TP trong việc giải quyết bài toán việc làm, đồng thời giúp người lao động được tiếp cận với những cơ hội công việc phù hợp với trình độ và năng lực cá nhân.
Ngoài ra, TP cũng ghi nhận 13.298 vị trí việc làm mới trong tháng 9, nâng tổng số việc làm mới trong 9 tháng đầu năm lên 112.915 vị trí, đạt 80,7% kế hoạch của TP. Các vị trí việc làm chủ yếu thuộc các ngành nghề như dịch vụ, sản xuất và chế biến thực phẩm. Điều này cho thấy TP.HCM không chỉ tập trung vào việc giải quyết việc làm cho lao động hiện tại mà còn mở ra nhiều cơ hội mới, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động.
Một trong những điểm nổi bật của TP.HCM trong công tác giải quyết việc làm là việc đưa lao động người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Tính đến tháng 9-2024, đã có 9.555 lao động được đưa đi làm việc tại các nước, chủ yếu trong các ngành nghề như chế biến thực phẩm, đóng gói và điều dưỡng. Những ngành nghề này không chỉ mang lại thu nhập ổn định cho người lao động mà còn giúp họ nâng cao tay nghề, kỹ năng chuyên môn để quay về cống hiến cho quê hương sau khi hoàn thành hợp đồng lao động ở nước ngoài.
Các ngành nghề có nhu cầu cần cao trong xuất khẩu lao động Việt Nam bao gồm sản xuất chế tạo, xây dựng, nông nghiệp và ngư nghiệp, đặc biệt tại Hàn Quốc. Tại Nhật Bản, nhiều lao động Việt Nam đang tham gia các chương trình thực hành kỹ năng, giúp họ tích lũy kinh nghiệm và kỹ năng thực hành. Ngoài ra, các nước như Đức và Úc cũng tăng cường tiếp nhận lao động Việt Nam, với sự tập trung vào các ngành điều dưỡng, hộ sinh, và y sĩ, nhằm đáp ứng nhu cầu nhân lực trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và phúc lợi xã hội.
Công tác bảo hiểm thất nghiệp cũng là một trong những ưu tiên hàng đầu của TP.HCM trong việc bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Trong tháng 8-2024, TP đã tiếp nhận 13.457 trường hợp nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp và đã ban hành 13.554 quyết định hưởng trợ cấp cho những người đủ điều kiện. Tính từ đầu năm đến nay, đã có 104.294 trường hợp nộp hồ sơ hưởng trợ cấp, giảm 10,3% so với cùng kỳ năm trước. Con số này cho thấy sự cải thiện đáng kể trong việc giữ ổn định việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp cho người lao động.
Một trong những thách thức hiện tại của TP.HCM là công tác phân luồng hướng nghiệp cho học sinh sau khi tốt nghiệp THCS. Mặc dù TP đã đặt ra chỉ tiêu phân luồng 70% học sinh sau tốt nghiệp THCS theo học lớp 10 THPT công lập và 30% còn lại sẽ học các trường tư thục, trung tâm giáo dục thường xuyên hoặc trường nghề, nhưng thực tế tỷ lệ học sinh chọn trường nghề vẫn còn hạn chế, chỉ đạt khoảng 10%.
Thủy Phạm
Bình luận (0)