Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Chàng Kim trở lại vườn Thúy

Tạp Chí Giáo Dục

Sống trên cõi đời, cái cảm giác trống vắng, buồn tê tái có lẽ là lúc ta trở lại chốn cũ vườn xưa tìm người thân yêu mà không thấy. Nếu người thân ấy là người yêu, mà lại là người yêu của mối tình đầu, nỗi đau buồn sẽ vô cùng.
Chả thế mà thơ cổ của Trung Hoa đã kể lại một thi phẩm tuyệt vời nói về chàng thanh niên Thôi Hộ. Ngày ấy, Thôi Hộ đi thi tiến sĩ, không đỗ, vào tiết Thanh Minh, chàng dạo chơi quanh kinh thành. Đến một ngôi nhà nọ, chàng gõ cửa xin nước uống. Có cô gái ra múc nước cho chàng rồi đứng tựa cành đào. Đến năm sau, Thôi Hộ, cũng tiết Thanh Minh ghé lại ngôi nhà ấy, và không thấy bóng người con gái đâu. Chàng viết thành thơ: Năm ngoái, ngày hôm nay ở trong cái cửa này, mặt người và hoa đào cùng ánh sắc hồng. Bây giờ, ta tới đây, hoa đào vẫn như cũ, không thấy mặt người ở đâu (Khứ niên kim nhật thử môn trung/ Nhân diện đào hoa tương ánh hồng/ Nhân diện bất tri hà xứ khứ/ Đào hoa y cựu tiếu đông phong).
Nguyễn Du đã lấy thần cốt của bài thơ trên miêu tả tâm trạng của chàng Kim khi trở lại vườn Thúy tìm Kiều: Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Gió đông tức đông phong, gió mùa xuân. Khi Kiều còn ở nhà, xuân ấy mới đẹp đẽ, kỳ diệu làm sao. Có lần chỉ thấy Kiều, dẫu chốn ấy có ngôi mộ, cảnh vật cũng bừng sáng: Một vùng như thể cây quỳnh cành giao.
Mà không buồn sao được, cũng cái vườn này đây, xưa Kiều ở, Kiều dạo dưới vườn đào, nàng đánh rơi cành kim thoa và hai người đã gặp nhau hò hẹn. Giờ đây, cũng cái vườn ngày xưa ấy, nay lại đầy vườn cỏ mọc lau thưa/ Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời! Nhà nàng ở ngày trước nay chỉ còn là một căn nhà bỏ trống, mặc cho ánh trăng đơn chiếc chiếu vào, tường vách mưa xối, mưa thấm vào làm cho tiêu điều, xiêu vẹo! Trước mắt chàng nào chim én liệng lầu không, nào cỏ mọc đầy vườn, không một dấu giày qua lại, cuối tường kia, nơi chàng đã bắc “thang mây” đến với Kiều nay gai góc mọc đầy. Đau xót biết bao, Kim còn nhận ra lối đi mà chàng và nàng đã đến với nhau, trao cho nhau trọn vẹn trái tim tuổi trẻ.
Nhưng có lẽ còn đau đớn hơn khi Kim Trọng hỏi chuyện người hàng xóm: Hỏi ông, ông mắc tụng đình (tụng đình là dính líu đến chuyện kiện cáo ở cửa công)/ Hỏi nàng, nàng đã bán mình chuộc cha/ Hỏi nhà, nhà đã dời xa… Mấy câu hỏi dồn dập, những câu trả lời toàn là cảnh đời chua xót. Còn nỗi đau nào hơn: Cha thì dính líu đến việc kiện tụng, nàng thì đã bán mình, nhà cửa đã dời đi chốn xa xôi nào đó. Nhớ ngày nào, nhà Thúy Kiều: Thâm nghiêm kín cổng cao tường, phòng Thúy Kiều ở: Êm đềm trướng rủ màn che mà nay một cảnh tiêu điều xơ xác.
Có một chuyện mà các nhà nghiên cứu suy nghĩ: Kim Trọng hỏi người hàng xóm về cha, về Thúy Kiều, về nhà ở… tiếp theo Kim Trọng hỏi Vương Quan với cùng là Thúy Vân. Nguyễn Du có bí từ không mà dùng ba từ liên tiếp với,  cùng, là?
Theo thiển nghĩ của chúng tôi: Không phải Nguyễn Du hết từ ngữ, ngược lại đây là chữ tinh tế, một tài hoa ngôn ngữ của Nguyễn Du. Nếu đọc nguyên truyện (TQ) ngày Kim Trọng gặp hai chị em Thúy Kiều ở mộ Đạm Tiên, về nhà Kim tương tư và phát thệ: Nếu không lấy được hai chị em nhà này sẽ không lấy cô gái nào khác. Điều này Nguyễn Du cũng đã tế nhị nói đến trong phần đầu của mối tình duyên. Như vậy, Thúy Kiều là người yêu đã nặng lời thề ước nhưng sau đấy không phải hoàn toàn không có bóng dáng của Thúy Vân. Một thanh niên có học, lịch sự như chàng Kim chẳng lẽ hỏi về người chị, chị đã đi xa, Kim liền vội vã hỏi đến Thúy Vân? Ba chữ với cùng, là diễn tả một chút đắn đo, giữ ý. Đấy cũng là tín hiệu cho mối tình Kim Trọng – Thúy Vân sau này.
Lê Xuân Lít

 

Bình luận (0)