Hiểu đúng một tác phẩm không phải là dễ dàng, cảm nhận được cái hay của nó càng khó hơn. Và nhất là, đối với một tác phẩm được đưa vào giảng dạy trong nhà trường thì yếu tố tiên quyết là phải đảm bảo tính giáo dục.
Học sinh Trường THPT Tây Thạnh kịch hóa truyện ngắn Chí Phèo |
Từ trước đến nay có khá nhiều tác phẩm khi đưa vào sách giáo khoa, song bị nhiều người cho là không nên, vì có nhiều yếu tố phản cảm, gây tranh cãi. Chẳng hạn từ các truyện dân gian, như Tấm Cám, Trí khôn của ta đây, cho đến các đoạn trích nhạy cảm của Truyện Kiều (Nguyễn Du), tiểu thuyết Số đỏ của Vũ Trọng Phụng… Tôi nhớ mấy mươi năm trước, khi bộ phim hài được chuyển thể từ bài ca dao Thằng Bờm và phim Số đỏ vừa đưa ra chiếu đã bị… cấm vì thiếu tính giáo dục. Thế nhưng, có một điều là, không thể loại bỏ tác phẩm đó vì nó là những “hiện tượng” đặc biệt, nó có một sức sống vững bền trong lòng công chúng. Vì thế những tác phẩm này luôn rơi vào tình cảnh dở dở ương ương “bỏ thì thương mà thương thì… nặng”! Chính vì thế, vai trò người cầm lái – những người biên soạn các câu hỏi hướng dẫn học bài trong sách giáo khoa, cũng như sự dẫn dắt của giáo viên trực tiếp giảng dạy, nhằm gợi mở để học sinh tìm hiểu tác phẩm theo hướng tích cực, phù hợp với thực tế cuộc sống hiện tại là vô cùng quan trọng.
Có thể nói, cách định hướng để tìm hiểu những giá trị tác phẩm văn học của chúng ta qua bao năm chưa có nhiều đổi mới đột phá. Từ những buổi đầu cách mạng, với những quan điểm, những đề cương giống như “kim chỉ nam” để định hướng văn hóa, giáo dục, sáng tác và cảm nhận hầu như còn giữ nguyên đến tận nay. Vì thế khi tìm hiểu tác phẩm, người dạy và người học vẫn bị giới hạn ở các mặt như: chủ nghĩa yêu nước ở đâu, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo thế nào, bênh vực ai, phê phán gì? Cho nên đa phần các tác phẩm bị “đóng khung” trong một giới hạn tìm hiểu. Cũng vì vậy mà khi phân tích các tác phẩm văn học trung đại, đa số học sinh đều quy kết cho chế độ phong kiến với những từ ngữ không thương tiếc, nào là thối nát, cổ hủ, đồi bại, lỗi thời… Mặc dù họ vẫn biết trong lòng xã hội ấy đã có biết bao Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm; biết bao danh nhân trên nhiều lĩnh vực.
Tôi nói hơi dài như trên để thấy rằng, với mọi tác phẩm, ngoài giá trị ổn định có tính bất biến về nội dung và nghệ thuật gắn liền với lịch sử, thời đại, việc dạy và học văn cần có thêm một nhiệm vụ nữa là: làm sống dậy nó trong lòng người đọc đương đại. Vì vậy, với truyện ngắn Chí Phèo, chí ít cũng phải khơi gợi được ý nghĩa giáo dục còn nguyên tính thời sự của nó.
Từ một đứa trẻ bị bỏ rơi từ nhỏ, bị chuyền qua nhiều tay người nuôi, thế mà khi lớn lên, năm 20 tuổi, Chí vẫn lành vững, trong sạch: làm một anh canh điền tốt bụng, ghét cái gian dâm và giàu ước mơ, khát khao hạnh phúc của một mái ấm gia đình. So với nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ, Chí Phèo vượt xa. Ngay cả ngày nay nữa, có biết bao số phận không may mắn như Chí mà có được mấy người trụ vững được tâm hồn thiên lương, mà vẫn không bị sóng đời xô ngã. Nhiều người khi sa đà vào lối sống trụy lạc thì thường vin vào lẽ nọ lý kia của hoàn cảnh để tìm muôn cách đổ thừa, và cứ thế càng trượt dài hơn. Thì đấy, Chí Phèo đã cho họ bài học về nghị lực: phải biết vượt qua nghịch cảnh để sống đàng hoàng, tử tế!
Với mọi tác phẩm, ngoài giá trị ổn định có tính bất biến về nội dung và nghệ thuật gắn liền với lịch sử, thời đại, việc dạy và học văn cần có thêm một nhiệm vụ nữa là: làm sống dậy nó trong lòng người đọc đương đại. |
Vì nhiều lý do đưa đẩy, Chí Phèo bị ghen, vào tù, bị biến chất, bị tha hóa, trở thành kẻ lưu manh, thành con quỷ dữ của cả xã hội loài người. Anh triền miên trong những cơn say, biến dạng cả mặt mày, tăm tối cả linh hồn cho quỷ sứ. Thế nhưng, thử hỏi, có được mấy người như Chí về sự ý thức được hòa nhập với cộng đồng xã hội, khát khao như Chí vì được biết tường tận về nguồn gốc họ hàng của mình từ đâu. Đọc báo ngày nay mà thấy có quá nhiều câu chuyện nhói lòng về nhân tình thế thái, nhức nhối về tình nghĩa phu thê, và tái tê với đạo nhà phụ tử…
Và ngay cả Chí nữa, khi đã thành quỷ, bị tước mất hết quyền làm người lương thiện, từ trong sâu thẳm bản thân, tiếng nói lương tri đã thúc giục anh đi đòi cho được. Đủ thấy rằng khát khao làm người “tử tế” (theo cách nói của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn) của Chí là rất lớn. Tôi cho rằng đây là tấm gương lớn nhất từ Chí Phèo mà ta cần trân trọng để học hỏi: phải sống lương thiện bằng bất cứ giá nào, ngay cả khi phải trả giá bằng cái chết. Cái xấu của hình tượng Chí Phèo cũng cho chúng ta một bài học nữa, bài học về sự cảnh tỉnh, về việc phải luôn đấu tranh để không bị sa ngã, không bị tha hóa vì ranh giới giữa thiện và ác vốn rất mong manh.
Tôi nhớ cách đây khá lâu, trước khi thay sách giáo khoa mới, có ý kiến của một học sinh lớp 11 ở miền Bắc cho rằng không nên đưa bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu vào nhà trường vì nhiều từ ngữ cổ khó hiểu, vì đau buồn, vì không hợp thời với các em… Nhưng loại khỏi chương trình tác phẩm này sao được.
“Bỏ” không được thì phải “thương”. Cho nên điều quan trọng là phải “thương” như thế nào?
Trần Ngọc Tuấn
(Trường THPT Tây Thạnh, TP.HCM)
Bình luận (0)