Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Chòng chành con chữ trên phá Tam Giang

Tạp Chí Giáo Dục

Những cụ già U50, 60 miệt mài bên tập vỡ lòng

Đêm đêm, bên bờ đầm phá Tam Giang mênh mông sóng nước, tiếng ê a đọc bài của những cụ già tuổi ngoại ngũ tuần đều đặn vang lên. Khát vọng hàng chục năm biết mặt chữ, làm phép tính của ngư dân nơi đây thành hiện thực…
Phá Tam Giang (thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế) – một trong những hệ đầm phá đa dạng sinh học nhất Đông Nam Á có khoảng 300 ngàn cư dân sinh sống cảnh đời nước sông gạo chợ, lênh đênh mặt nước. Cuộc sống bấp bênh, sự học cũng bấp bênh. Năm 2008, một lớp học xóa mù được mở.
Cảnh đời nước sông, gạo chợ
Thôn Ngư Mỹ Thạnh, xã Quảng Lợi (Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế) tầm rạng sáng, những ngư dân tất bật tấp thuyền ghe vào bờ cho kịp phiên chợ sớm. Một lão ngư chống ghe bằng cây sào tre trong ràn rạt sương sớm, mang theo mớ cá nhỏ tầm chưa tới 3kg lên bờ, buông tiếng thở dài thõng thượt: “Tôm cá ngày một khan hiếm, thức trắng cả đêm đổi chưa được vài lon gạo cầm hơi qua ngày”. Vội vã buông neo thuyền bên cạnh, lão ngư Nguyễn Cổn (62 tuổi) tiếp câu chuyện dang dở bởi tiếng thở dài của người láng giềng: “Nói mô xa, vài năm trước mỗi ngày chài lưới trên phá gia đình tui thu nhập khoảng 400 nghìn đồng. Tha hồ chi tiêu. Rứa mà nháy mắt một cái, chừ cặm cụi giăng bủa cả ngày vẫn bữa có, bữa không. Tôm, cá ở cái đầm ni cạn kiệt hết rồi”.  
Mang tiếng là ngư dân vùng đầm phá đa dạng sinh học và rộng lớn nhất Đông Nam Á nhưng người dân nơi đây để có cái ăn đều phải nhờ trời. Quanh năm suốt tháng, vợ chồng con cái đều phải chèo chống lênh đênh trên mặt nước để đánh bắt con cá, con tôm. Cả vùng đầm phá rộng lớn đi qua địa phận của hai huyện Phú Lộc và Quảng Điền với hàng chục làng xã nơi nào cũng vậy, thậm chí một đứa trẻ lên 5 dù chưa biết mặt chữ nhưng đều có thể chèo thuyền rất sành!
Đời sống của hàng trăm ngàn ngư dân vùng đầm phá Tam Giang gắn liền với việc khai thác trực tiếp nguồn tài nguyên trong đầm phá. Nhu cầu lớn, phương tiện khai thác ảnh hưởng đến môi trường ngày càng làm cạn kiệt nguồn thủy sản. Ông Trần Văn Minh, Trưởng thôn Ngư Mỹ Thạnh nói: “Trước đây khi ngư dân còn đánh bắt tôm cá bằng các phương tiện bủa lưới, đặt nò thuần túy thì nguồn thủy sản rất dồi dào. Mấy năm trở lại đây, người ta dùng xung điện, đánh bắt một cách ồ ạt và thiếu hợp lý nên nguồn thủy sản bị tận diệt, thưa dần. Có nhiều ngày đi từ tối đến sáng rõ mặt người mà cá thu được chẳng đổi đủ mấy lon gạo cho cả nhà ăn trong ngày…”.
Để ý trên hàng chục chiếc ghe, đỏ mắt tìm cũng không thấy bóng nam thanh nữ tú. Hỏi người đàn bà đang dò dẫm mò ốc giữa dòng nước bạc, không thèm ngước mặt lên nhìn khách, bà chùng giọng: “Thanh niên trai trẻ bây giờ chúng vào miền Nam kiếm việc cả rồi. Sống lênh đênh mặt nước, thu nhập chẳng đáng là bao nên nỏ mấy đứa chọn cái nghề này nữa”.
Thống kê của Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh này cho thấy, trung bình mỗi năm ở vùng đầm phá này có khoảng 4.000 đến 5.000 lao động phổ thông khăn áo rời quê lên các thành phố lớn tìm việc làm. Làng quê vì thế chỉ còn người già và con trẻ bám trụ. Theo thống kê của UBND huyện Quảng Điền, tỷ lệ hộ nghèo của các xã ven vùng đầm phá này luôn vượt mức trung bình. Đơn cử như, xã Quảng An có đến gần 20% số hộ nghèo, Quảng Công có đến hơn 16%, các xã Quảng Lợi, Quảng Ngạn… tỷ lệ hộ nghèo đều chiếm trên 15%.
Thất học
Cuộc sống khó khăn luôn kéo theo tình trạng con em thất học. “Trước miếng cơm manh áo, cái chữ luôn được đặt ở hàng thứ yếu”, ông Trần Văn Minh buông tiếng thở dài. Dẫu là một người đứng đầu thôn, được tham gia nhiều cuộc họp hành, ít nhiều hiểu về hậu quả của việc mù chữ nhưng cả ba đứa con của ông đều bỏ học từ lúc chưa tốt nghiệp tiểu học, đứa út được cưng chiều nhất đang theo học lớp 10 nhưng cũng đang có ý định nghỉ học.
Theo chân ông Minh đi một vòng quanh thôn Ngư Mỹ Thạnh, rất dễ dàng nhận thấy nhiều em tầm 14, 15 tuổi ngồi vá lưới hoặc giăng lưới. Ông Minh cho biết, thôn Ngư Mỹ Thạnh có gần 200 hộ dân thì có đến 30% người mù chữ. Cứ tính từ độ tuổi 30 trở lên, số người biết chữ trong làng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Chuyện con cái bỏ học diễn ra thường xuyên. “Năm ngoái cả thôn có gần 50 em cấp 2 nhưng khi thi tốt nghiệp lên cấp 3 chỉ còn chưa đầy 10 em tiếp tục theo học. Cả thôn chỉ có 2 đứa đang theo học đại học. Đời cha mẹ cực quá, họ chỉ nghĩ đến chuyện làm sao kiếm được ngày ba bữa cơm chớ việc đầu tư cho con mỗi năm vài chục triệu đồng theo học đại học mấy ai dám nghĩ tới”, ông Minh thật thà nói.
Không riêng thôn Ngư Mỹ Thạnh (xã Quảng Điền), gần như đa phần ngư dân sống đời chài lưới trên Phá Tam Giang ở các xã như Quảng Lợi, Quảng Công, Quảng Phước, Điền Hải… tỷ lệ mù chữ đều ở mức trên 30%, thậm chí có nơi con số này lên đến 40%. Mặc cho mỗi năm, chính quyền có nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích các em đến trường nhưng chuyện bỏ học giữa chừng vẫn tái diễn. Cuộc sống của cư dân đầm phá cứ mãi luẩn quẩn trong vòng vây: Nhà nghèo – con đông – thất học!
“Ngày mới” ở Tam Giang

Ở Tam Giang, những đứa trẻ chưa biết mặt chữ đã theo mẹ đi kiếm sống

Bình minh vừa ló dạng. Phiên chợ sớm ngay trên vùng sông nước vội tan. Trưởng thôn Ngư Mỹ Thạnh, Trần Văn Minh tranh thủ đi từng nhà nhắc nhở mọi người lên lớp. Năm 2008, Trung tâm GDTX huyện Quảng Điền đã phối hợp với Dự án phát triển cộng đồng RLS (Quỹ Rosa Luxemburg Stiftung – Đức) tổ chức mở lớp dạy bình dân học vụ nhằm xóa mù cho bà con. Toàn thôn có đến 40 người từ 30 đến 80 tuổi đăng ký theo học. Lớp học được mở ngay Nhà văn hóa thôn. Tầm 7 giờ 30 sáng, trở về sau một đêm lao động vất vả, các “học sinh” thuộc lớp học xóa mù này lại xôn xao gọi nhau đến lớp. Trong không gian nhỏ hẹp của Nhà văn hóa thôn, bàn ghế được góp nhặt từ nhiều thứ gỗ tạp cũ kĩ đóng lại. Học sinh cũng rất đặc biệt, hầu hết đều lớn tuổi hơn người thầy giáo đứng trên bục giảng nhưng mỗi khi nghe tiếng thước gõ lên bảng đen, tiếng đọc bài lại vang lên trong trẻo như họ hoàn toàn thoát ra khỏi gánh nặng mưu sinh mỗi ngày. Cứ thế, thầy đọc vài từ thì dừng lại, những học trò cầm bút trên đôi bàn tay chai sần, gương mặt sạm đen vì nắng gió khẽ nhíu lại dồn hết lực viết từng chữ trên tập vở kẻ ô ly. Ở lớp này, dù nét chữ chưa thật vững vàng do tuổi già, nhưng ông Nguyễn Con (81 tuổi) luôn là tấm gương cho mọi người noi theo. Chỉ qua một tuần ông Con đã thạo chữ, một tháng ông biết làm phép tính đơn giản và có thể bày lại cho bà con. Ông Nguyễn Con bảo: “Ai mà không muốn biết chữ. Biết chữ sướng lắm, nhỡ có viết cái thư thăm con cũng không cần nhờ cậy ai. Cả đời cực khổ đành thất học, nay chính quyền quan tâm mở lớp tận thôn nên tranh thủ học cho biết. Cũng là để con cháu noi theo”.
Vừa tan buổi học, chị Ngô Thị Hương (45 tuổi) vội vã về nhà. Đang lúc xế chiều chưa phải ra đầm giăng lưới nên chị tranh thủ nhờ đứa con đang học lớp 6 giảng bài hộ. Chị Hương vui vẻ cho biết: “Tui đi học được 3 tháng rồi, bây giờ đã biết viết tên mình và còn biết làm phép cộng trừ nữa. Mỗi khi đi bán cá không cần phải nhờ người tính hộ nữa rồi”. Dường như mọi nhọc nhằn, lo toan của cuộc sống nhẹ hẫng sau nụ cười rạng rỡ của chị khi khoe với chúng tôi việc biết đọc biết viết. Chị thổ lộ, dù phải vất vả nuôi ba đứa con đang học cấp 2 nhưng cả hai vợ chồng đều tranh thủ đến lớp học chữ. Ngày nào một trong 2 người có việc phải nghỉ học thì người còn lại sẽ truyền đạt lại những gì được học trong buổi hôm đó cho người kia.
Lớp học thôn Ngư Mỹ Thạnh luôn có sĩ số từ 30 đến 40 người. Thầy giáo Hồ Quang Chính – người đứng lớp phấn khởi: “Tuy các cô bác đều cao tuổi, việc học viết, học tính khó khăn hơn các em đúng độ tuổi đến trường nhưng mừng là ai cũng có ý chí phấn đấu, rất nhiệt tình trong việc học hỏi. Sau 3 tháng đến lớp, hầu hết các cô bác đều biết đọc, viết và làm phép tính”.
Chia tay bà con ngư dân vùng đầm phá, chúng tôi đọc được niềm tin, sự vui sướng trong từng nụ cười, trên đôi bàn tay thô ráp nắn nót viết từng nét chữ. Khát vọng mấy chục năm biết mặt chữ, làm phép tính của ngư dân đầm phá ngày hôm nay đã thành hiện thực!
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên 

Bình luận (0)