Y tế - Văn hóaSức khỏe đời sống

Chuyên gia dịch tễ nói về các biến chủng virus SARS-CoV-2 đang lưu hành tại Việt Nam

Tạp Chí Giáo Dục

GS.TS Phan Trọng Lân, Viện trưởng Viện Pasteur TPHCM cho biết, các biến thể virus gây dịch COVID-19 đáng quan ngại xuất hiện, lưu hành thì sau 1 thời gian sẽ xuất hiện ở hầu hết các nước, trong đó có Việt Nam, làm cho công tác dự phòng và kiểm soát càng đòi hỏi ở mức cao hơn nữa.

Chuyên gia dịch tễ nói về các biến chủng virus SARS-CoV-2 đang lưu hành tại Việt Nam

Hiện nay, các tác động của biến thể SARS-CoV-2 chủ yếu trên 5 phương diện là: khả năng lây lan, độ nặng của bệnh, công tác xét nghiệm, tránh miễn dịch và điều trị.

Hiện nay tại Việt Nam đang lưu hành các biến chủng virus SARS-CoV-2. Ngay từ khi vụ dịch bùng phát đã phát hiện ra các biến thể mang đột biến D614G vào đầu tháng 3/2020 từ những công nhân từ nước ngoài về. Tiếp đến là sự xuất hiện của các biến thể B.1.1.7 và biến thể B.1.351 được ghi nhận vào tháng 10/2020 từ những công dân về nước từ Anh và hiện nay là biến thể B.1.617 của Ấn Độ từ ổ dịch Yên Bái, Hà Nam.

Chuyên gia này phân tích, mức độ lây lan của các biến thể có sự khác nhau. Qua nghiên cứu cho thấy rằng biến thể B.1.1.7 có khả năng lây nhiễm cao hơn đến 70% so với các biến thể cũ, nghĩa là một người đã mắc bệnh với biển thể cũ trung bình sẽ lây cho 2 đến 4 người khác, với biến thể B.1.1.7 có thể lây cho đến 7 người khác. Các biến thể khác như B.1.351 (Nam Phi), P.1 (Brazil), B.1.617 (Ấn Độ) cũng được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) báo cáo rằng có khả năng gia tăng sự lây nhiễm. “Do vậy, nếu chúng ta không kịp thời ngăn chặn thì khả năng lây lan dịch tăng theo cấp số nhân”, ông Lân nhấn mạnh.

Về độ nặng và điều trị, theo báo cáo từ WHO và Trung tâm kiểm soát bệnh tật (CDC) Hoa Kỳ, biến thể B.1.1.7 (ở Anh) có khả năng liên quan đến việc tăng độ nặng và khả năng tử vong. Theo WHO, biến thể B.1.351 (Nam Phi) cũng có khả năng gia tăng nguy cơ tử vong trong bệnh viện và biến thể P.1 (Brazil) có khả năng gia tăng nguy cơ nhập viện. Mặt khác, theo ước tính về sự lây truyền virus ở Mỹ, tỷ lệ nhiễm bệnh không triệu chứng là 30%; nghĩa là có khoảng 70% bệnh nhân sẽ phát triển triệu chứng sau nhiễm SARS-CoV-2. Ở những người có triệu chứng, trong đó có khoảng 20% mắc bệnh nặng và có 5% là rất nặng (sốc, rối loạn chứng năng đa cơ quan, suy hô hấp…). Do đó, nếu số ca mắc tăng lên nhiều thì sẽ gây quá tải cho hệ thống y tế, từ đó dẫn đến tăng số ca tử vong.

Về vấn đề xét nghiệm, theo thống kê của GISAID (Sáng kiến toàn cầu chia sẻ dữ liệu bệnh cúm) cập nhật ngày 21/5, một số mồi và đầu dò phổ biến dùng cho phản ứng realtime RT-PCR SARS-CoV-2 hiện nay không bị ảnh hưởng nhiều trước sự xuất hiện các biến thể mới gần đây. Hơn nữa các xét nghiệm sinh học phân tử này thường sử dụng một vài gen đích đặc hiệu để xác định virus do vậy giảm thiểu sự tác động của các đột biến.

Tuy nhiên, các đột biến của SARS-CoV-2 vẫn đang xảy ra thường xuyên, liên tục nên vẫn có khả năng ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm trong tương lai và có thể dẫn đến kết quả âm tính giả. Do đó, cần thường xuyên cập nhật thông tin về ảnh hưởng của các đột biến và khi biện giải kết quả xét nghiệm cần xem xét và kết hợp các triệu chứng lâm sàng, dịch tễ học và tiền sử bệnh nhân.

Theo WHO, các vắc xin COVID-19 hiện được cấp phép cung cấp sự bảo vệ nhất định chống lại các biến thể virus mới vì chúng tạo ra một phản ứng miễn dịch rộng rãi liên quan đến một loạt các kháng thể và tế bào. Do đó, những biến đổi hoặc đột biến của virus sẽ không làm cho vắc xin mất hoàn toàn tác dụng.

Trong trường hợp bất kỳ loại vắc xin nào được chứng minh là kém hiệu quả hơn đối với một hoặc nhiều biến thể, thì có thể thay đổi thành phần của vắc xin để bảo vệ chống lại các biến thể này. Do đó, việc giám sát các đột biến của virus cũng như tác động của các biến thể mới đối với hiệu quả bảo vệ của vắc xin cần được tiếp tục theo dõi, cập nhật và đánh giá.

GS.TS Phan Trọng Lân nhìn nhận hiện nay, nước ta đã kiểm soát chặt chẽ các ca nhập cảnh theo đường chính ngạch, tuy nhiên, việc kiểm soát nhập cảnh trái phép, nhất là với những đối tượng chỉ quá cảnh qua Việt Nam, nếu không phát hiện được sẽ hoàn toàn mất dấu, khó kiểm soát nguồn lây. Chưa kể việc không tuân thủ trong các khu cách ly tập trung, cách ly tại nhà có thể xuất hiện các trường hợp F0, đặc biệt, khoảng 60% trường hợp mang virus, không có biểu hiện bệnh, không biết mình mang virus đi lại sẽ làm bệnh dễ dàng lây lan và khó phát hiện.

Theo Hà Minh/TPO

 

Bình luận (0)