Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Chuyển giao công nghệ dạy học còn tự phát

Tạp Chí Giáo Dục

Giáo viên Trường TH Nguyễn Văn Trỗi (Q.4, TP.HCM) sử dụng CNTT vào dạy học. Ảnh N.Trinh
Việc chuyển giao công nghệ dạy học (CNDH) ở các trường THCS hiện nay có diễn ra song còn mờ nhạt, manh mún, chủ yếu qua các đợt bồi dưỡng, họp chuyên môn để triển khai một số nội dung đổi mới phương pháp dạy nhưng sau đó một số trường không làm hoặc làm theo kiểu… hình thức. Đó là ý kiến của thầy Nguyễn Ngọc Bảo Chương – Phó hiệu trưởng Trường THCS Lam Sơn (Q.Bình Thạnh, TP.HCM).
Theo thầy Chương, một trong những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do thiếu mô hình quản lý có hiệu lực.
Hoạt động bị bỏ ngỏ
Từ những năm đầu của thế kỷ 21, xu thế hội nhập của ngành giáo dục ngày càng sâu và rộng thể hiện ở các mô hình xã hội hóa tham gia vào đầu tư cho ngành, đồng thời các đơn vị cung cấp thiết bị, công nghệ mới cũng thâm nhập sâu vào hoạt động của các trường. Hàng loạt các đề án chuyển giao CNDH được chuyển từ nước ngoài vào Việt Nam như: Dạy học đa phương tiện, dạy học thế kỷ 21, kiểm định chất lượng PISA, quản lý nhà trường bằng ứng dụng CNTT… Đi kèm với các đề án này là hàng loạt phương tiện kỹ thuật, máy móc hiện đại như máy chiếu Projector, bảng tương tác Activeboard, camera 3 chiều, các dụng cụ thí nghiệm… cùng với các phương án kết nối chúng thành bộ hoạt động ngày càng tinh vi, đem lại nhiều lợi ích cho công tác dạy – học, từ đó thúc đẩy sự ra đời và phát triển của hoạt động chuyển giao CNDH trong ngành giáo dục. Tuy nhiên, hoạt động quản lý chuyển giao CNDH chỉ thường thấy tại các trường ĐH, CĐ hoặc dạy nghề mà dường như “bỏ ngỏ” ở các trường phổ thông, khiến cho mảng công tác này trong thời gian qua chưa thực sự hiệu quả.
Đối với trường THCS hiện nay thì công tác quản lý chuyển giao CNDH được đánh đồng như việc quản lý mua sắm trang thiết bị, tức là theo quy trình: Nếu CNDH thuộc đối tượng máy móc, thiết bị thì thường do nhà trường tự tìm kiếm hoặc do giới thiệu. Nếu CNDH thuộc đối tượng là bí quyết, phương pháp, kỹ năng thường từ các đề án của ngành triển khai đến toàn thể hệ thống trường học. Nhìn chung, các trường THCS ở thành phố đã có thái độ tích cực trong việc tìm tòi và ứng dụng những CNDH mới để từng bước nâng cao chất lượng dạy – học của đội ngũ giáo viên và học sinh, chấp hành tốt những chủ trương của ngành về đổi mới phương pháp giáo dục và quản lý theo hướng ngày càng hiện đại. Tuy nhiên, nhận thức của cán bộ quản lý,  giáo viên về chuyển giao CNDH còn rất sơ sài và đơn giản. Theo họ, chuyển giao CNDH chỉ đơn thuần là mua máy móc, thiết bị về phục vụ cho một vài bộ phận, một vài bài giảng trong một thời điểm nhất định tùy theo phong trào…
Có thể nói, đây là lối tư duy vô cùng lạc hậu và thụ động, nó là một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng khô cứng, thiếu sáng tạo, cứng nhắc trong hoạt động giáo dục của các trường THCS. Mặt khác, nó thể hiện tính thiếu nghiêm túc và tinh thần trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực từ Nhà nước và đóng góp của nhân dân.
Sở dĩ xảy ra tình trạng trên là do chính đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên chưa được trang bị đầy đủ những hiểu biết về tầm quan trọng của CNDH hiện đại, về vai trò chức năng của công tác xã hội hóa giáo dục trong bối cảnh nền kinh tế thị trường lan tỏa…
Cần xây dựng mô hình quản lý
Để công tác chuyển giao CNDH trong giai đoạn đổi mới nền giáo dục đạt hiệu quả, tôi cho rằng cần thiết có một mô hình quản lý chuyển giao CNDH cho các trường để qua đó các trường THCS có thể chủ động xây dựng và thực hiện thành công công tác này, đưa phong trào ứng dụng CNDH mới tại trường đi vào thực chất. Các trường THCS sẽ có điều kiện học tập kinh nghiệm lẫn nhau trong lĩnh vực này. Ngoài ra, mô hình quản lý này sẽ đòi hỏi về những dịch vụ từ bên giao CNDH cần thiết cho bên nhận theo qui định của Luật Chuyển giao công nghệ, thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục và kế hoạch tài chính của đơn vị.
Về phía bên giao, thực hiện theo quy trình cũng hết sức cần thiết vì: Hoàn tất chuyển giao CNDH có chất lượng đồng nghĩa với việc bên giao đã chuyển giao hết hàm lượng giá trị của CNDH cho bên nhận. Là cơ sở để bên giao thu thập thông tin về CNDH cũng như rút tỉa nhiều kinh nghiệm giúp khắc phục hạn chế và phòng ngừa sự cố trong quá trình chuyển giao. Về tính khả thi, qui trình thực hiện đảm bảo các thủ tục hành chính, nguồn lực được sử dụng tại đơn vị, với chi phí tăng thêm ngoài giá trị hợp đồng chuyển giao CNDH không nhiều (do gắn với công tác chuyên môn của giáo viên), kế hoạch chuyển giao đảm bảo tính tổng thể trong kế hoạch chung của trường nên tính khả thi cao và linh hoạt.
Để xây dựng một mô hình quản lý chuyển giao CNDH cho các trường THCS, bên cạnh việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản như đảm bảo thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển GD-ĐT và ứng dụng KH&CN, phù hợp với mục tiêu và quan điểm phát triển GD-ĐT Việt Nam hiện nay thì về mặt kỹ thuật xây dựng mô hình, ta cần tiếp cận hai phương pháp cơ bản là phương pháp phân tích chức năng và phương pháp tiếp cận hệ thống. Qua đó đề ra được một mô hình khá đơn giản nhưng tính khả thi cao, vừa phát huy được vai trò chủ động của nhà trường vừa đánh giá và vận động được trách nhiệm của đơn vị cung cấp CNDH, từ đó tạo thành sức mạnh chung giúp cho quá trình quản lý chuyển giao CNDH được hiệu quả hơn cả về mặt ứng dụng dạy học và kinh tế.
So với cách quản lý chuyển giao CNDH trước đây, mô hình quản lý được đề xuất sẽ có một số ưu điểm, nhất là tính hệ thống chặt chẽ, chức năng cụ thể, tổng thể giúp cán bộ quản lý vận dụng được các kỹ năng quản lý vào công việc của mình ngày càng tốt hơn, tức là có định hướng quản lý chất lượng là xu thế phát triển của ngành giáo dục hiện nay.
Dương Bình (ghi)
Cần thiết có một mô hình quản lý chuyển giao CNDH cho các trường THCS để qua đó các trường có thể chủ động xây dựng và thực hiện thành công công tác này, đưa phong trào ứng dụng CNDH mới tại trường đi vào thực chất. 
 

Bình luận (0)