Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Chuyển hướng một cách dạy

Tạp Chí Giáo Dục

Giáo viên đã sử dụng các hình ảnh của nhà thơ Chính Hữu để minh họa bài giảng

Tiếp nhận một tác phẩm văn học nếu chỉ có kiến thức vẫn chưa đủ mà sự cảm thức còn đòi hỏi phải có một con đường đi phù hợp với từng văn bản, nhất là các bài thơ đã được “đóng đinh” trong lòng bạn đọc.
Có thể nói, đó là một thử thách cho các GV bộ môn khi dạy một tác phẩm thơ, nếu không thì sự thành công vẫn nằm ngoài tầm tay…
Cách khai thác nội dung
“Đoạn trích Lục Vân Tiên gặp nạn đã khép lại phần văn học trung đại mà chúng ta đã đi qua. Hôm nay các em sẽ bước sang phần văn học hiện đại mà trong đó có những tác phẩm ghi lại chặng đường đấu tranh đầy cam go của dân tộc với những con người “chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Họ sẵn sàng dứt áo ra đi theo tiếng gọi của non sông và đã dựng nên tượng đài bất hủ trong thơ ca về người chiến sĩ cách mạng và đẹp nhất là tình đồng chí keo sơn gắn bó sát cánh bên nhau ngay trong hoàn cảnh khó khăn gian khổ. Tình cảm đó đã được thể hiện thành công trong bài Đồng chí của Chính Hữu”.
Đó là lời mở bài của cô Mai Thị Hoa – giáo viên (GV) văn Trường THCS Cửu Long (Q.Bình Thạnh) – khi đưa các em học sinh (HS) đến với bài thơ được chọn giảng trong chương trình lớp 9. Giống như con đường vào các tác phẩm khác trong bộ môn giảng văn, GV còn giúp HS định hình lại những kiến thức trong SGK bằng những ý chính do các em tổng hợp. Đây cũng là cách làm của GV bộ môn trong xu hướng đổi mới phương pháp giảng dạy thay vì phải đọc – chép như trước đây.
Tuy nhiên trong cái tổng thể vẫn có những nét riêng cho mỗi tác phẩm khi cô giáo yêu cầu cách đọc diễn cảm bài thơ về tình đồng đội. Điều này cũng thể hiện rõ hơn khi chúng tôi xem lại hướng dẫn cách đọc cho HS trong giáo án của GV: “Cách đọc chậm rãi, rõ ràng diễn đạt để diễn tả tình cảm ấm áp của đồng đội”. Cẩn thận hơn, cô Hoa còn lưu ý: “HS đọc chậm hơn và cao hơn trong 3 dòng thơ cuối để khắc họa biểu tượng đẹp về người lính cách mạng”.
Nếu theo phương pháp cũ, GV có thể trình bày chi tiết cách phân đoạn của văn bản như trong giáo án đã chuẩn bị sẵn. Tuy nhiên để phát huy tính tích cực của HS, giúp cho các em có “cơ hội” động não, GV đã đưa ra câu hỏi yêu cầu các nhóm chia đoạn bài thơ dựa vào những mạch cảm xúc chính, đó là sự “nảy mầm” tình cảm ngoài mặt trận của những người nông dân mặc áo lính thời kỳ sau 1945. Nếu trong 3 dòng cuối là biểu tượng của tình đồng chí thì ở phần trọng tâm là những xúc cảm chân thành thể hiện đậm nét tình đồng đội giữa gian nguy. Ngoài những câu hỏi đơn giản dành cho đối tượng trung bình trở xuống: “Em hiểu gì về hai chữ đồng chí?” vì đã có chú thích trong SGK, GV còn đưa ra những yêu cầu cao hơn khi đặt một số câu hỏi cho HS khá giỏi như: “Em hãy cho biết phương thức biểu đạt của bài thơ?”. Tuy nhiên để mở rộng kiến thức và không gian bài thơ, cô Hoa đã có thêm những chú thích rõ ràng hơn cho các em hiểu về khái niệm cũng như sắc thái biểu cảm của một từ Hán – Việt: “Đồng chí” là những người cùng chung chí hướng, lí tưởng và đây là cách xưng hô của những người trong cùng một đoàn thể cách mạng. Đó là tình cảm mới, quan hệ mới giữa người với người trong kháng chiến, tình cảm gắn bó sẻ chia được gửi vào hai tiếng “đồng chí” thân thương.
Tìm con đường nghệ thuật
Để giúp HS đi vào bài học một cách tự nhiên, GV còn đặt ra câu hỏi có tính chất tu từ mà không cần các em phải trả lời: “Trong kháng chiến tình cảm đó được hình thành như thế nào? Chúng ta cùng theo dõi đoạn thơ đầu để hiểu sâu hơn về tình cảm đó”. Đây chính là lời trò chuyện của hai người bạn thân cùng một chiến hào trong thời máu lửa chung cảnh ngộ, cùng giai cấp đã xây nên nền tảng vững chắc cho cơ sở tình cảm cao đẹp và rất đáng trân trọng. Thành ngữ: “Nước mặn đồng chua”, cụm từ: “Đất cày lên sỏi đá” đi vào lời thơ đã tạo nên sức mạnh về sự gợi tả cảnh ngộ tương đồng của người chiến sĩ. Các từ ngữ khác như: Xa lạ, quen nhau, súng bên súng, đầu sát bên đầu… được GV gạch chân giúp HS hiểu sâu hơn giá trị của nghệ thuật khắc họa hình ảnh qua từ ngữ. Cùng với cặp từ: Anh – tôi, đôi người, hình ảnh súng – đầu càng tô đậm sự tri kỷ của hai con người từ các miền quê khác nhau nhưng cùng một chiến tuyến. Đó chính là điểm gặp gỡ của lòng yêu nước và sự hội tụ lý tưởng người anh hùng. Xúc động hơn là hình ảnh thể hiện rất đậm đặc sự sẻ chia trong gian khó: “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ”. Không chỉ xoáy sâu vào giá trị nội dung, cô Hoa còn dẫn đường cho các em đi tìm giá trị nghệ thuật bài thơ qua các biện pháp tu từ như: Hoán dụ (giếng nước gốc đa nhớ người ra lính) câu đặc biệt (Đồng chí!). 
Phân tích thơ cũng phải có điểm dừng, nhất là khi người cảm thụ gặp được ánh sáng phát ra từ một vài câu là “điểm nhãn” của cả bài thơ. Đối với bài này cũng vậy. Bằng biện pháp nghệ thuật hoán dụ, câu: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” đã trở thành một câu thơ hay, đầy ấn tượng vừa gợi hình lại vừa gợi cảm. Câu thơ như có sức mạnh về sự hòa quyện của hai con người, hai con tim làm ấm áp thêm tình yêu giai cấp, tình cảm cách mạng. Chính đó là “động lực” đẩy tình cảm lên cao trào ở những dòng thơ cuối. Sự kết hợp giữa yếu tố hiện thực (súng) và chất lãng mạn (trăng) đã tôn thêm vẻ đẹp bình dị nhưng cao cả của hình tượng người chiến sĩ. Có thể nói đây là giây phút thăng hoa kì diệu của tâm hồn nhà thơ làm cho bài thơ cất cánh bay cao và hình tượng người lính chống Pháp, anh bộ đội Cụ Hồ sống mãi với lịch sử.
Bài, ảnh: Phan Ngọc Quang
Để giúp HS hiểu vẻ đẹp và ý nghĩa sâu xa câu thơ đầy sáng tạo “Đầu súng trăng treo”, GV phải có bản lĩnh vững vàng về cách cảm thụ và lượng thông tin truyền đạt chuẩn mực mới chuyển tải hết được hồn của câu thơ và cả bài thơ. 
 

Bình luận (0)