Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Chuyện những người giữ rừng ở Cần Giờ: Kỳ cuối: Vì những người ngã xuống

Tạp Chí Giáo Dục

Dù đã gần 70 nhưng ông Nguyễn Văn Tám không một ngày xa rừng đước

Vì nhiều lý do khác nhau, tôi phải tá túc lại rừng đước một đêm. Một đêm trong rừng, tôi thức trắng vì lạ chỗ ngủ và muỗi.
Bữa cơm với thịt mỡ muối nấu lá giang
Sau bữa cơm chiều, dưới ánh đèn dầu lúc tỏ lúc mờ, tôi cùng ông Ba làm nốt ba xị đế với đặc sản cá đối nướng. Ông Ba chuẩn bị cho tôi chiếc võng dù sờn màu. 9 giờ ông đã ngủ say. Còn tôi vẫn ngồi đó đập… muỗi. 12 giờ đêm, ông Ba dậy chuẩn bị chuyến đi tuần cho đến gần sáng, sẵn đón bà Ba từ nhà vô rừng. Thấy tôi ngồi tần ngần, ông vỗ nhẹ vai tôi, bảo: “Ai mới vô đây cũng thế thôi, về nhà rồi ngủ bù”.
Từ chòi canh này sang chòi canh khác phải mất ít nhất một giờ chèo xuồng. Ngày cũng như đêm, những người giữ rừng hiếm khi gặp nhau. Cho nên, nếu không may đau ốm thì chẳng biết cầu cứu ai. Ông Ba nói: “Ông trời có mắt chú à, biết mình sống nơi rừng rú nên thương, ít có đau bệnh gì”. Mặc dù đã có chính sách ưu tiên đặc biệt với những hộ canh giữ rừng, song vẫn còn nhiều hạn chế do các yếu tố khách quan. Nhu cầu thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày của những hộ dân ở đây như điện (điện mặt trời), nước ngọt… đã có nhưng chưa phủ kín. Để có nước ngọt, nhiều gia đình phải dùng vải hoặc bao ni lông bó vào thân cây đước để dẫn nước vào thùng. Nước ấy đem nấu (cách nấu như nấu rượu) lấy nước cất làm nước ngọt. Đây là giải pháp tình thế mà các chiến sĩ chiến khu Rừng Sác đã từng làm.
Vào mùa mưa rau rừng ăn không hết, có khi còn phải chở về xuôi bán lấy tiền mua gạo. Còn mùa nắng thì khan hiếm, dây bầu, dây bí, luống rau lang… tự trồng quanh chòi cũng chẳng thấm vào đâu. Do đường sá đi lại cách trở nên những người giữ rừng thường đi chợ một lần/ tháng, có khi hơn nữa. Một lần đi chợ về, trên ghe có cả nước ngọt, gạo, muối, bột ngọt, dầu ăn, cá khô, thịt mỡ… Sở dĩ người dân không mua cá tươi, thịt heo… là vì khó bảo quản.
5 giờ sáng, ông Ba chở tôi đến chòi canh của anh Nguyễn Văn Công. Khi chúng tôi ghé vào cũng là lúc vợ anh Công mới đi chợ về. Soạn mớ thức ăn trong bao ni lông ra, chỉ có miếng thịt mỡ là tươi sống dùng để nấu canh lá giang, rau kiềm… mọc ven rừng. Tuy nhiên, vì đường về rừng khá xa, sợ thịt bị ươn, chị Tiềm cẩn thận xát muối ngay ngoài chợ. Anh Công phụ vợ lấy thịt xát thêm muối rồi mang treo trên cây đước, nơi có ánh sáng mặt trời chiếu vào. “Khi nào nấu canh thì cắt một miếng để nấu, phải làm vậy để thịt không bị ươn, thối”. Anh Công cho biết. Do nguồn nước ngày càng ô nhiễm từ thượng nguồn đổ về nên tôm, cá đối, cá nâu… đặc sản của rừng ngập mặn cũng cạn kiệt dần, bữa ăn của người giữ rừng cũng vì thế mà trở nên chật vật.
Vì những người nằm xuống
Tôi lại lên đường đến Khu Du lịch sinh thái Cần Giờ để tìm nhân chứng sống trong thời quân đội Mỹ hủy hoại cánh rừng ngập mặn. Ông Nguyễn Văn Tám, tên thường gọi Tám ba lô (sinh năm 1943), nguyên là bộ đội Đoàn 10 Chiến khu Rừng Sác, nguyên Trưởng phòng Nông lâm thủy lợi Cần Giờ được xem là một minh chứng sống cho sự hồi sinh của rừng đước Cần Giờ. Năm 14 tuổi, ông rời quê hương (xã Phước Vĩnh Đông, huyện Cần Giuộc, Long An) đi kháng chiến. Được biết đến là một chiến sĩ gan dạ, can trường trong thời chống Mỹ. Ông Tám đã chứng kiến sự tàn phá của quân đội Mỹ và chính ông là một trong những người có công lớn cho sự hồi sinh của rừng ngập mặn nơi này. Ông Tám giãi bày: “Tôi xung phong đi trồng rừng là vì đồng đội tôi đã ngã xuống, bằng mọi cách cho cánh rừng hồi sinh”.
Nhà ông Tám (ở ấp An Hòa, xã An Thới Đông) nghèo đến nỗi một tấm ván ép nhỏ cũng không có chỗ để dựng. Biết ông Tám ba lô khó khăn nhưng có tài, có đức, nhiều người đề nghị ông làm bí thư huyện, thế mà ông lại từ chối để hết lòng với rừng đước. Đối với người chiến sĩ này, cây đước trồng đến đâu là lòng ông vui đến đấy. Một ngày không trồng và giữ rừng là lương tâm áy náy vô cùng. Cái thời ông còn là Trưởng phòng Lâm nghiệp, người ta thường thấy ông lặn lội chốn rừng sâu, chỉ có chiếc xuồng và muông thú là bạn. Dù quá khứ xa đằng đẵng nhưng những bữa ăn chính bằng trái bần, rau rừng đã in sâu vào ký ức của ông, không bao giờ phai nhạt.
Ông Tám hào hứng kể cho tôi nghe những câu chuyện của thời xa xưa. Ông gắn cuộc đời mình với cây đước, với rừng Cần Giờ như duyên trời định. Ông Tám có 6 anh em đều tham gia kháng chiến, trong đó có 4 người đã ngã xuống ở Chiến khu Rừng Sác. Chứng kiến cảnh tàn phá của quân đội Mỹ, anh em, đồng đội hy sinh, ông Tám nguyện phải làm một cái gì đó để bù đắp cho những người thân yêu của mình. Ý nguyện của ông là bằng mọi giá phải cứu cánh rừng ngập mặn, ông tự nguyện làm để mọi người noi theo. Ông cười tươi, vẻ mãn nguyện: “Mình cứ làm gì đó cho rừng rồi sẽ được lợi từ rừng. Có ai khổ bằng tôi đâu mà tôi vẫn nuôi được các con vào đại học, dù chỉ nuôi con bằng mắm, khô, những thứ có được từ rừng”.
Bài, ảnh: Trần Tuy An

Dù đã đến tuổi hưu nhưng chưa một ngày ông Tám rời xa rừng đước bởi xa rừng là nhớ đến sinh bệnh. Đã gần 70, ông vẫn nhận lời làm hướng dẫn viên du lịch cho Công ty Du lịch sinh thái Cần Giờ là để thỏa nỗi nhớ rừng. Ông là nhân chứng sống hiếm hoi của bộ đội Đoàn 10 lịch sử của Chiến khu Rừng Sác.

 

Hãy đánh giá bài viết này!

Số điểm trung bình của bài viết (số sao) / 5.

Chưa có ai đánh giá bài viết này! Hãy là người đầu tiên đánh giá

Bạn đã đánh giá bài viết này hữu ích!

Hãy theo dõi chúng tôi trên mạng xã hội

Bình luận (0)