Thượng tướng Nguyễn Chơn gặp ông Huỳnh Ba năm 1994 tại Bãi Chuối
|
Nhắc đến chuyến tàu không số đầu tiên khai mở tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại, hẳn không ít người đã nhiều hơn một lần được nghe tên tuổi thủy thủ Huỳnh Ba – người thủy thủ cuối cùng trên chuyến tàu không số đầu tiên còn lại với kí ức không phai mờ trước thời gian. Nhưng ít ai biết rằng, đằng sau người thủy thủ này luôn có một “hậu phương” vững chãi để cho ông niềm tin, ý chí, sức mạnh… trước mọi ngón đòn tra tấn của kẻ thù.
Con hẻm nhỏ ngoằn ngoèo dẫn vào thôn Nam Ô 3, P.Hòa Hiệp Nam, Q.Liên Chiểu, TP.Đà Nẵng những ngày cuối đông thanh bình đến lạ. Những sợi khói lam tỏa dẫn lên bầu trời mang theo vị mặn nồng của mùi biển cả sau những mái nhà nhỏ của xứ sở nổi tiếng về nghề nước mắm truyền thống. Hỏi nhà ông Huỳnh Ba, ai cũng vui vẻ dẫn đường đến tận nhà…
Những người con kiên trung
Ở vào tuổi 86, ông Huỳnh Ba vẫn còn rất minh mẫn. Kí ức về chuyến tàu không số đầu tiên của ông cùng đồng đội nhận nhiệm vụ vượt biển chở 5 tấn vũ khí từ sông Gianh (Quảng Bình) vào Bãi Chuối (Thừa Thiên – Huế) như vừa mới xảy ra hôm qua. Trong ngôi nhà tình nghĩa do Bộ Tư lệnh Hải quân và Đài Truyền hình TP.HCM trao tặng cựu tù yêu nước Huỳnh Ba vẫn còn thơm mùi vôi mới, ông chậm rãi kể cho chúng tôi nghe về những ngày tháng vượt biển cả trên chuyến tàu đầu tiên khai mở đường mòn Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển gian nan vất vả nhưng rất đỗi tự hào.
Quê ở vùng biển bãi ngang xã Duy Hải (Duy Xuyên, Quảng Nam). Năm 20 tuổi, chàng thanh niên Huỳnh Ba (lúc này có tên khai sinh là Nguyễn Nửa) gia nhập đơn vị vận tải của Đoàn vận tải Ủy ban Kháng chiến Nam Trung bộ. Năm 1946, ông được chuyển qua công tác tại đơn vị T08. Đến năm 1950, bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà lao Đà Nẵng và nhà lao Thừa Thiên – Huế. Sau thời gian dùng đủ ngón đòn tra khảo, không khai thác được gì, địch đành thả ông.
Cuối năm 1959, khi đang làm giao liên ở tuyến Đà Nẵng – Nha Trang – Buôn Ma Thuột, ông được Ban thống nhất Trung ương điều ra Bắc nhận nhiệm vụ vận chuyển vũ khí vào chi viện cho quân khu 5. Chuyến tàu xuất phát tại bến sông Gianh, chở 5 tấn vũ khí, được trang bị các ngư cụ như tàu đánh cá. Trên tàu, ngoài ông ra còn có 5 đồng chí khác. “Đêm 30 Tết Canh Tý (năm 1960), nhân có đợt gió mùa đông bắc tràn về, là cơ hội tốt để tàu ra khơi. Cấp trên hạ lệnh cho tàu chúng tôi nhổ neo, rời bến vào đúng đêm giao thừa. Đêm đầu tiên, tàu rẽ hướng ra hải phận quốc tế với ý định sẽ vòng vào chân đèo Hải Vân cập bến Bãi Chuối (Thừa Thiên – Huế). Thế nhưng, ngày hôm sau do gặp sóng to gió lớn, tàu bị gãy tay lái, không điều khiển được nên bị trôi về phía Nam, đến ngày thứ 3 thì trôi vào đảo Lý Sơn. Mọi người trên tàu định lên đảo Lý Sơn thì phát hiện có tàu địch đi tuần. Trung úy Nguyễn Bắc – thuyền trưởng – quyết định thả tất cả vũ khí trên tàu xuống biển và thống nhất nếu bị giặc bắt thì khai là tàu đánh cá, bị hư nên trôi giạt vào đây. Chiều mùng 4 Tết, cả 6 đồng chí trên tàu bị giặc bắt”, giọng ông Ba bỗng trầm nhớ lại.
“Sau khi dùng đủ mọi hình thức tra tấn dã man, vẫn không moi được tin gì ở anh em. Chúng bắt đầu đày anh em chúng tôi đi hết nhà lao này sang nhà lao khác. Từ Lý Sơn, Huế, Đà Nẵng đến nhà lao Gia Định, khám Chí Hòa, Phú Lợi (Sài Gòn)… cuối cùng chúng đày ra Côn Đảo… Những ngày đó chúng chỉ cho anh em mặc độc chiếc quần đùi, nằm co ro trong những chiếc chuồng cọp lại còn bị còng xích chân. Nhưng anh em trước khi bị bắt đã một lòng không khai. Suốt 14 năm ròng rã, tra tấn, đày đọa bọn địch vẫn không thắng được ý chí kiên trung của anh em. Đến năm 1974, chúng đành thả anh em”, ông Ba cho biết.
14 năm đằng đẵng đợi chờ
Hạnh phúc giản dị của vợ chồng ông Huỳnh Ba
|
Trong khi Huỳnh Ba cùng đồng đội bị địch bắt giam, đày đi hết nơi này đến nơi khác thì ở vùng biển dưới chân đèo Hải Vân, bà Nguyễn Thị Nghĩa – vợ ông – đã phải vượt qua mọi lời dụ dỗ rồi đến hăm dọa của kẻ thù. Biền biệt 14 năm trời không một dòng tin, bà vẫn một lòng trung trinh son sắt. “Ngày ông ấy đi đứa con thứ 2 vừa được 25 ngày tuổi, đứa đầu thì vừa biết đi chập chững gọi chưa rõ tên cha. Nhiều lần bọn giặc tìm đến tra hỏi chồng tui đi đâu? Tui trả lời là ông ấy đi đâu muốn biết thì cứ đi tìm. Tui không tìm được vì bận làm ăn nuôi con. Lúc đầu tụi hắn còn dụ dỗ ngon ngọt, sau đó quay sang hăm dọa bắt đi tù. Tui nói: Nếu bắt tui đi tù thì cứ bắn hai đứa con tui trước rồi bắn tui cũng được. Chớ tui nỏ biết chồng ở mô mà bắt đi tìm”, ánh mắt bà Nghĩa rạng ngời niềm tin, kể lại.
Không dò hỏi được tung tích ông Ba, chúng quay sang tung tin với bà Nghĩa rằng chồng bà đã chiêu hồi trở về với giặc hiện đang ở Huế. Rồi chúng khuyên bà đi thăm chồng. Đoán biết được ý đồ bọn chúng, bà nhất quyết không đi. Hằng ngày, bà lặng lẽ với gánh rau xanh, mớ cá tươi và vài chai nước mắm rong ruổi khắp nơi vừa bán kiếm tiền nuôi con vừa làm cơ sở nuôi giấu cách mạng. “Xa nhau mười mấy năm trời bà có nghĩ rằng ông đã chiêu hồi hoặc hi sinh?” – tôi hỏi. Bà Nghĩa âu yếm nhìn chồng: “Tính ông ấy tui biết, dù gian khổ thế nào vẫn không đầu hàng đâu. Biền biệt không bắt được tin tức gì, nhiều đêm tui cũng nghĩ đến chuyện ông ấy hi sinh nhưng không hiểu vì sao mỗi lúc như thế bên tai tui nghe rõ mồn một lời ông ấy nói là ông ấy sẽ về”.
Hạnh phúc giản dị
Trong cuộc đời với nhiều lần cận kề sinh tử, có lẽ với ông Ba kỷ niệm đáng nhớ nhất trong cuộc đời ông là khi quay trở về tìm lại vợ con. Năm 1974, trên chuyến xe đò từ Quảng Nam về Đà Nẵng có hai cha con cùng đi nhưng họ không nhận ra nhau. “Hôm đó đứa con gái đầu của tui đi buôn chuyến ngồi đầu băng ghế còn tui ngồi cuối băng ghế. Khi xe đỗ trả khách, tui với nó cùng về chung một con đường, nó gánh hàng hóa đi trước còn tui mệt nhọc ôm tay nải theo sau. Về đến tận đầu ngõ, bà Phước (một cơ sở cách mạng từng nuôi giấu tui) la lên: “Hòa! Răng mi không gánh giùm để ba mi ôm đồ nặng rứa?”. Lúc đó hai cha con nhìn nhau ngỡ ngàng, mừng tủi. Đôi chân bước về phía con mà cứ khuỵu xuống”, ông Ba kể lại.
Ông Ba bảo, ông may mắn hơn nhiều đồng đội khác, hòa bình trở về quê còn có vợ con. Cuộc sống dù còn lắm vất vả nhưng chưa bao giờ thiếu tình yêu. 6 anh em trên chuyến tàu không số ngày đó, giờ đây 5 đồng đội đã thành người thiên cổ, chỉ còn mình ông. Sau bao nhiêu năm xa cách, nay trong ngôi nhà nhỏ ấm cúng, vợ chồng ông có cuộc sống thảnh thơi bên nhau với tấm lòng son sắt thủy chung bình dị và đầm ấm.
Trong cái se lạnh mùa đông, nhìn cảnh hai ông bà mở radio cùng nhau nghe thời sự, tôi chợt ngộ ra rằng, chính tình yêu và niềm tin son sắt dành cho nhau ấy đã chứng minh cho thời đại và nhân loại hiểu rằng, chiến tranh – sự tàn ác của kẻ thù chỉ có thể gây chết chóc và hủy diệt nhiều thứ nhưng không thể nào hủy diệt được tấm lòng và tình yêu trọn vẹn mà con người dành cho nhau, cho Tổ quốc!
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên
Năm 1994, chính Thượng tướng Nguyễn Chơn (lúc đó là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) – người được giao nhiệm vụ đón chuyến tàu không số do ông Ba và đồng đội vận chuyển vũ khí tại Bãi Chuối tìm gặp lại ông Ba và xác nhận đây là nhân chứng cuối cùng trên chiếc tàu không số đầu tiên mà ông nhận nhiệm vụ đón tàu nhưng không đón được tàu. |
Bình luận (0)