Y tế - Văn hóaVăn hóa nghệ thuật

Cùng mùa thu nhớ Nguyễn Trãi

Tạp Chí Giáo Dục

Nhìn lại lịch sử Việt Nam thời trung đại, chúng ta thấy hiếm có một tài năng trên nhiều lĩnh vực như Nguyễn Trãi. Ông là nhà chính trị kiệt xuất, vị anh hùng dân tộc, nhà thơ nhà văn lớn, là danh nhân văn hóa thế giới. Và điều còn quan trọng hơn là trong những điều kiện thuận lợi hay khó khăn, con người tài năng nhiều mặt ấy không chỉ để lại sự nghiệp lớn của riêng mình mà đã có những cống hiến tối ưu cho dân tộc và đất nước.

Nguyễn Trãi – danh nhân văn hóa thế giới

Đã có biết bao lời ngợi ca Nguyễn Trãi. Ở đây chúng tôi nhớ lời của Nguyễn Mộng Tuân, một nhà nho cùng thời: “Kinh bang hoa quốc cổ vô tiền” (tài lo liệu việc nước, làm cho đất nước văn minh từ xưa chưa có ai hơn ông). Bốn chữ “Kinh bang hoa quốc” khái quát được công lao to lớn trên nhiều lĩnh vực của tài năng xuất chúng này. Tư cách anh hùng dân tộc bên cạnh tư cách danh nhân văn hóa tạo nên chân dung hoàn chỉnh về Nguyễn Trãi, cũng như sức khái quát của bốn chữ của người xưa vừa dẫn.

Dưới thời Minh thuộc có hơn sáu mươi cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đến với khởi nghĩa Lam Sơn, dù người đứng đầu – Lê Lợi – không phải dòng dõi tôn thất hay một trí thức có danh vọng, mà chỉ là một điền chủ ở miền tây Thanh Hóa heo hút với một nhóm người ít ỏi. Trong thời gian tham gia khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã sử dụng ngòi bút như một vũ khí (ông gọi là đao bút). Đóng góp của ông đã góp phần làm nên một chiến công không gì sánh nổi (vô cạnh chi công – Bình Ngô đại cáo), đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi, nhà Hậu Lê được lập nên và đất nước phát triển đến cực thịnh, nước nhà có thời kỳ hòa bình dài nhất trong lịch sử. Nhãn quan chính thống chưa bao giờ chi phối suy nghĩ và hành động của con người này.

Trong văn bản trọng đại “Bình Ngô đại cáo” ban bố nhân danh người sáng lập nhà Hậu Lê, Nguyễn Trãi đánh giá “Hồ chính chi phiền hà” (chính sự nhà Hồ phiền hà). Tất cả đều thấu tình đạt lý, không khác mấy đánh giá của người hôm nay. Nguyễn Trãi là một đại tác gia văn chương chữ Hán nhưng ông không hề coi nhẹ văn chương chữ Nôm, đã để lại “Quốc âm thi tập” 254 bài, tập thơ Nôm quy mô sớm nhất. Con người Nguyễn Trãi công lao lừng lẫy, đạo đức trong sáng nhưng kết cục cuộc đời vô cùng bi thảm. Ông bị nhà Hậu Lê kết án tru di nhưng chính một vị vua Lê đời sau khẳng định lòng Ức Trai sáng như sao Khuê (Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo – Lê Thánh Tông).

Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà văn hóa lớn của dân tộc Việt Nam. Ông đã tham gia tích cực cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc) với Đại Việt. Khi cuộc khởi nghĩa thành công vào năm 1428, Nguyễn Trãi trở thành một trong những khai quốc công thần của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu ân xá cho ông. Năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”. Thơ văn Nguyễn Trãi phong phú, đa dạng về đề tài, cảm hứng; giàu giá trị tư tưởng và đậm tính trữ tình. Nổi bật trong các tác phẩm của ông là tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên và những ưu tư về thế sự.

Những điều này hiển nhiên là nghịch lý của lẽ phải thông thường. Có lẽ do sống trong hoàn cảnh riêng chung có nhiều điều đặc biệt, con người tài năng và bản lĩnh lớn này lại không bằng lòng thuận theo thói thường! “Bình Ngô đại cáo” được đặt bên cạnh những bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp, Mỹ… Văn bản đã nói đến khát vọng to lớn muôn đời của con người “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”. Đặc biệt là trong hoàn cảnh xã hội phong kiến phương Đông u tối ngưng trệ, bản đại cáo đã đạt tầm lý tính hiếm thấy. Nó đã thấy những yếu tố cơ bản nhất của quốc gia phong kiến, xứng đáng là một cống hiến ở tầm thế giới. Thật đáng tự hào biết bao!

Khi dùng ngòi bút để đánh giặc, khi là nhà chính trị giữa triều đình, hay khi là nhà thơ vừa nặng nỗi lo đời vừa thân thiết với cỏ cây sông núi, Nguyễn Trãi luôn là con người nhân ái. Ở giá trị Nguyễn Trãi ta bắt gặp tinh thần Trần Nhân Tông, vì những con người này đều tiêu biểu cho cốt cách Việt Nam.

Đã có nhà nghiên cứu liệt kê những câu thơ Nguyễn Trãi và những câu ca dao tục ngữ gần gũi, từ đó kết luận Nguyễn Trãi đã tiếp thu văn học dân gian Việt Nam. Đây là việc làm hữu lý. Cũng với những cứ liệu ấy, cũng với tinh thần thực chứng ấy, nhưng chúng tôi cho rằng có thể nghĩ nhiều hơn đến chiều ngược lại: không ít câu thơ Nguyễn Trãi đã gia nhập kho tàng ca dao tục ngữ Việt Nam, nguyên dạng hay chỉ ý tứ. Có cơ sở để tin như vậy. Phần lớn thơ Nôm được Nguyễn Trãi sáng tác cuối đời. Hoàn cảnh riêng chung tạo nên ở tác giả tâm thế chiêm nghiệm, đúc kết. Trước sau Nguyễn Trãi vẫn là nhà thực tiễn, nhà nhân văn chủ nghĩa tinh nhạy và từng trải.

Trong văn học Việt Nam trung đại, Nguyễn Trãi là tác gia duy nhất có sự tương xứng kép, ở bậc cao: tương xứng giữa trước tác chữ Hán và trước tác quốc âm, tương xứng giữa văn chính luận và văn chương thẩm mỹ. “Bình Ngô đại cáo” xứng đáng là tác phẩm làm vinh dự cho một đời văn và một thời văn. Chúng tôi cho rằng “Bình Ngô đại cáo” thuộc số xứng đáng nhất. Người ta đã nói nhiều về những thành tựu tư tưởng của văn bản. Vậy còn phương diện văn thể thì sao? Ông là hình ảnh đẹp nhất của loại hình nhà thơ chiến sĩ “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa” (Huy Cận).

Nguyễn Trãi và Nguyễn Du là hai đỉnh cao của thơ Việt Nam trung đại. Khi Nguyễn Trãi viết “Quốc âm thi tập”, chữ Nôm mới ra đời ba thế kỷ và thơ quốc âm thật ít ỏi. Rất có thể nhiều từ ngữ và nhiều cỏ cây dân dã nhờ nhà thơ mà lần đầu tiên bước vào văn học, vì vậy tập thơ có những câu mộc mạc là tất yếu, nhưng đáng quý biết bao.

Nguyễn Du làm thơ khi gia tài tiếng Việt và thơ quốc âm đã dày dặn. Lúc này cống hiến của tác giả là ở trình độ tinh luyện. Nhà thơ Chế Lan Viên đã khẳng định sắc thái riêng và cống hiến chung của hai vị tiền nhân: “Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc/Nguyễn Du ngâm Kiều đất nước hóa thành văn”.

Phạm Tuấn Vũ

Bình luận (0)