Sự kiện giáo dụcTin tức

Cứu lấy tiếng Việt cho người Việt ở nước ngoài

Tạp Chí Giáo Dục

Dạy tiếng Việt cho người Việt sinh sống tại Campuchia. Ảnh: T.S
Việc dạy và học tiếng Việt từ lâu đã là một nhu cầu của các cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, nhưng do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan, những hoạt động này diễn ra với các mức độ và kết quả khác nhau.
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Hoàng Yến, Phó viện trưởng Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, hiện nay có khoảng trên 4 triệu người Việt Nam ở nước ngoài. Đa số người Việt sống ở nước ngoài có xu hướng định cư lâu dài và hội nhập dần dần vào nước sở tại.
Tiếng Việt là một tài sản
Ở một số quốc gia như Australia, Canada, Mỹ, Nhật, Pháp… tiếng Việt khá được coi trọng. Theo bà Yến, ở Australia, tiếng Việt được chính quyền sở tại công nhận như một sinh ngữ chính thức, được giảng dạy ở cấp tiểu học, trung học và ĐH. Ở Canada, Chính phủ thực hiện chính sách bảo tồn các ngôn ngữ cội nguồn trong một xã hội đa văn hóa thông qua các chương trình di sản ngôn ngữ, do đó trẻ em Việt Nam có thể học tiếng Việt theo chương trình chính quy. Ở Mỹ, tại bang California, nơi có nhiều người Việt Nam định cư, có hơn 50 cơ sở dạy tiếng Việt. Ở Nhật Bản, ở những thành phố lớn như Tokyo, Osaka đều có khoa tiếng Việt ở các trường ĐH lớn, đào tạo quy mô, chất lượng cao. Ở Pháp, tiếng Việt được Bộ Giáo dục Pháp công nhận như một ngoại ngữ chính thức trong các kỳ thi tú tài hoặc tuyển sinh vào ĐH; một số trường ĐH có khoa Việt học, tiếng Việt được dạy như một môn học chính thức. Tại các nước láng giềng như Lào, Campuchia và Thái Lan, tiếng Việt được đưa vào dạy trong một số trường phổ thông và trường ĐH… Rất nhiều người Việt xa xứ quan tâm đến vấn đề dạy tiếng Việt bởi với họ, giữ được tiếng mẹ đẻ là giữ được hồn của nước. Theo TS. Nguyễn Thế Kỷ, Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, cần đẩy mạnh tuyên truyền, cổ vũ, giáo dục các thế hệ người Việt ở nước ngoài quan tâm tới việc giữ gìn bản sắc dân tộc bắt đầu bằng việc giữ gìn tiếng nói. Phải thực sự coi tiếng Việt là một tài sản thì mới thấy được trách nhiệm giữ gìn và yêu quý tiếng Việt đã có từ hàng ngàn năm nay. Ông Kỷ đề nghị cần biên soạn các bộ sách dạy tiếng Việt cho các lứa tuổi. Hình thành, phát triển các trung tâm dạy tiếng Việt ở nước có đông người Việt. Cần phải có một hệ thống giáo trình chuyên dụng, soạn riêng cho con em người Việt theo các độ tuổi, trình độ khác nhau. Nội dung giáo trình cũng phải khác, giới thiệu được những tri thức cơ bản của tiếng Việt, văn hóa Việt thông qua các văn bản điển hình, mang sắc thái tâm hồn người Việt… Ngoài ra, cần lưu ý tới việc biên soạn các cuốn từ điển tiếng Việt riêng cho người Việt ở nước ngoài…
Những nguy cơ mai một
Mặc dù vậy, việc giữ gìn tiếng Việt tại các cộng đồng người Việt ở nước ngoài đang gặp rất nhiều khó khăn. Ông Ngô Tiến Điệp (nhà báo tại Nga) cho biết người Việt ở Nga hiện nay chủ yếu là những tiểu thương, mưu sinh bằng công việc buôn bán, không có nhiều thời gian gần gũi để chăm sóc, chỉ bảo thường xuyên cho con cái mình. Đa phần trẻ Việt được gửi cho các bảo mẫu người Nga nuôi từ khi bắt đầu chập chững biết đi. Khi đến tuổi đi học, trẻ Việt cả ngày ở trường, học nết ăn, nết ở, nết sinh hoạt của người Nga. Hơn nữa, phần đông cha mẹ các cháu không đánh giá cao tầm quan trọng của việc giáo dục ngôn ngữ, về nết ăn, nết ở theo phong tục Việt cho trẻ em, thường xuyên phó mặc cho nhà trường, xã hội. Sự nhận thức hời hợt đó đã dẫn đến việc nhiều thanh, thiếu niên Việt ở Nga hiện nay không hiểu về lối sống, văn hóa Việt Nam. Một điều dễ nhận thấy là không riêng gì trẻ em, mà ngay chính các bậc phụ huynh cũng không hiểu hết tầm quan trọng của việc học tiếng Việt. Họ nghĩ rằng con cái họ học tập ở Nga chỉ cần tiếng Nga giỏi là được, học đọc, viết tiếng Việt không có mục đích rõ ràng.
Tình trạng này cũng xảy ra đối với cộng đồng người Việt tại Mỹ. Ông Lê Vũ (nhà báo tại Mỹ) cho biết là một cộng đồng di dân non trẻ và nghèo khó, khi mới di dân tới Mỹ, đa số không biết tiếng Anh, không biết văn hóa Mỹ, và không có tay nghề. Ưu tiên đầu tiên là tồn tại. Cha mẹ bươn chải đi làm. Con trẻ phó mặc cho trường Mỹ. Sau một thời gian, khoảng cách “xung đột văn hóa” giữa con cái và cha mẹ bắt đầu nảy sinh. Đây là một vấn nạn khá phổ biến trong cộng đồng người Việt tại Mỹ và hầu như không có một nỗ lực cứu vãn nào. Mỗi gia đình tự đối phó lấy. Có trường hợp thành công, lắm trường hợp thất bại.
Từ phía Bộ GD-ĐT, PGS.TS Nguyễn Thị Hoàng Yến cho rằng môi trường dạy và học tiếng Việt chưa thuận lợi tại các cộng đồng người Việt ở nước ngoài như trong gia đình, cha mẹ thiếu quan tâm duy trì việc sử dụng tiếng Việt, ngoài xã hội, tiếng Việt chưa được xem là một trong những ngôn ngữ thứ hai mà học sinh có quyền lựa chọn, do đó không tạo ra động lực học tập cho học sinh. Các tài liệu được sử dụng để dạy và học tiếng Việt nhìn chung không đảm bảo yêu cầu. Các cơ sở dạy tiếng Việt hầu hết đều ở tình trạng không có tài liệu dạy tiếng Việt với tư cách là ngôn ngữ thứ hai. Đội ngũ giáo viên dạy tiếng Việt tại các trung tâm được tuyển chọn từ cộng đồng, làm việc theo chế độ kiêm nhiệm (họ phải làm các công việc chính khác để mưu sinh). Một số người trong số họ đã từng là giáo viên ở Việt Nam, được đào tạo dạy các môn học khác nhau như tiếng Việt (tiểu học), ngữ văn (THCS), toán, hóa. Hầu như không có giáo viên nào dạy ngoại ngữ. Họ chủ yếu dạy theo kinh nghiệm sử dụng tiếng Việt đã trải nghiệm. Không ai trong số họ có kiến thức, kĩ năng, phương pháp dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai.
Trước những khó khăn trên, các chuyên gia cho rằng cần phải tháo gỡ từ nhiều mặt. Trong đó, hiện nay, Bộ GD-ĐT đã biên soạn thẩm định và phê duyệt hai chương trình dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài, bao gồm chương trình dạy tiếng Việt cho thanh, thiếu niên (Tiếng Việt vui) và chương trình dạy tiếng Việt cho người lớn (Quê Việt). Hai bộ sách đã được dạy thí điểm và được đánh giá. Tuy nhiên, theo lãnh đạo Bộ GD-ĐT, khâu khó khăn nhất đối với việc triển khai dạy theo hai chương trình và hai bộ sách mới (Tiếng Việt vuiQuê Việt) chính là đội ngũ giáo viên đảm nhiệm việc dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài.
Nghiêm Huê
“Báo chí phải vừa tuyên truyền, nêu tấm gương về giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt nói chung, vừa phải đẩy mạnh tuyên truyền việc dạy và học tiếng Việt cho đồng bào ta đang sinh sống, học tập, lao động ở nước ngoài”, ông Nguyễn Thế Kỷ nhấn mạnh.
 

Bình luận (0)