Truyện ngắn của nhà văn O. Henry rất đỗi đời thường, nhẹ nhàng, dễ hiểu, pha chút hài hước, dí dỏm song rất giàu tình cảm. Ông có thể sáng tác bất cứ ở đâu, trong bất cứ cảnh ngộ nào của cuộc sống…
“Những con đại bàng” trong văn học xứ “cờ hoa”
So với nhiều quốc gia khác trên thế giới, văn học Mỹ hình thành và phát triển khá muộn, khoảng trên dưới 400 năm trở lại đây, nếu tính luôn cả trong thời kỳ thuộc địa. Ngoại trừ những nhà văn tiên phong buổi đầu, nhắc đến văn học Mỹ phải kể đến “những con đại bàng” làm rạng danh cho xứ “cờ hoa” của văn học hiện đại với nhiều phong cách khác nhau. Đó là Mark Twain (1835-1910), tác giả của Những cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer (The Adventure of Tom Sawyer), cây bút sáng tác gắn liền với miền viễn Tây nước Mỹ, nhà văn lớn nhất của nước Mỹ thế kỷ XIX, phản ánh cuộc sống và tâm hồn của con nguời Mỹ nghèo nàn mà yêu đời, thích phiêu lưu, mạo hiểm. Sáng tác của ông là “sự hòa quyện giữa chất hiện thực, hài hước với phê phán, tạo nên phong cách nghệ thuật độc nhất vô nhị của văn học Mỹ trong thế kỷ XIX” (Phùng Văn Tửu). Là Jack London (1876-1916), nhà văn hiện thực nổi tiếng với truyện ngắn Tình yêu cuộc sống (Love of Life) được nhiều người “gối đầu giường”, cha đẻ của thể loại tạp chí thương mại thịnh hành bấy giờ với “trí tưởng tượng phi thường”, đề cập đến những triết lý, “đặt giữa sự cao thượng và thấp hèn, làm cho con người bộc lộ nhân cách giữa những xung đột gay gắt” (Từ điển Văn học, bộ mới, NXB Thế giới). Đó còn là nhà văn xuất sắc nhất thời kỳ hiện đại của văn học hiện đại Mỹ – Ernest Hemingway (1899-1961, đạt giải Nobel Văn học 1954), cha đẻ của kiệt tác The Old man and The sea (Ông già và biển cả), nổi tiếng với đề tài viết về cuộc sống và tâm trạng của một lớp thanh niên trong và sau chiến tranh thế giới, tiêu biểu cho loại văn chương mà các nhà phê bình gọi là văn chương của “thế hệ mất mát” (lost generation), đổi mới cho lối viết của tiểu thuyết phương Tây hiện đại thế kỷ XX, nổi tiếng với phương pháp sáng tác theo nguyên lý “tảng băng trôi”…
Tuy nhiên, không thể không kể đến cây bút bậc thầy về thể loại truyện ngắn trong văn chương Mỹ và nhân loại, đó là nhà văn O. Henry (1862-1910). Khác với phong cách sáng tác của các tác giả nói trên, đặc trưng của truyện ngắn O. Henry là rất đỗi đời thường, nhẹ nhàng, dễ hiểu, pha chút dí dỏm song rất giàu tình cảm. Ông có thể sáng tác bất cứ ở đâu, trong bất cứ cảnh ngộ nào của cuộc sống, như giai thoại về chiếc thực đơn tính tiền trong quán ăn mà nhiều người biết đến. Nét đặc sắc nổi bật nhất về tính nhân văn trong truyện ngắn của O. Henry là việc xây dựng các tình huống truyện, và từ tình huống ấy nhân vật bộc lộ tính cách, vẻ đẹp tình người.
“Giải mã” tình huống trong truyện ngắn của O. Henry
Tình huống là sự kiện, hoàn cảnh, bối cảnh, cảnh ngộ, cơ sở… làm tiền đề cho sự xuất hiện của nhân vật, câu chuyện. Theo ý kiến của các nhà lý luận, tình huống truyện là “cái hoàn cảnh riêng” được tạo nên bởi một “sự kiện đặc biệt” khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và “ý đồ tư tưởng của tác giả” cũng được bộc lộ sắc nét nhất. Khi sáng tác, tình huống thuộc thao tác tư duy nghệ thuật của người cầm bút, song khi nó đi vào tác phẩm thì trở thành một khía cạnh nội dung. Theo Hegel (1770-1831, nhà triết học, mỹ học người Đức), tình huống là “một trạng thái có tính chất riêng biệt và trở thành được quy định. Ở trong thuộc tính này của nó, tình huống góp phần biểu lộ nội dung là cái phần có được một sự tồn tại bên ngoài bằng sự biểu hiện nghệ thuật” (Mỹ học). Lựa chọn tình huống truyện cho thấy cảm quan, chân tài, sở trường của các bút thủ.
Tình huống là sự kiện, hoàn cảnh, bối cảnh, cảnh ngộ, cơ sở… làm tiền đề cho sự xuất hiện của nhân vật, câu chuyện. Theo ý kiến của các nhà lý luận, tình huống truyện là “cái hoàn cảnh riêng” được tạo nên bởi một “sự kiện đặc biệt” khiến cho tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và “ý đồ tư tưởng của tác giả” cũng được bộc lộ sắc nét nhất. |
Về mức độ, có tình huống bao trùm, chi phối toàn bộ tác phẩm, có tình huống trở thành một chi tiết trong truyện. Về bản chất, có các loại tình huống thường gặp trong truyện ngắn là: tình huống tâm trạng, hành động và nhận thức. Tình huống tâm trạng đưa ra cảnh ngộ để bộc lộ suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật và người đọc. Tình huống hành động là cách ứng xử bằng thái độ, hành động. Còn tình huống nhận thức là từ cảnh ngộ rút ra những ý vị triết lý sâu sắc. Nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu: “Những người cầm bút có biệt tài có thể chọn ra trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc thời gian mà ở đó cuộc sống đậm đặc nhất, chứa đựng nhiều ý nghĩa nhất, một khoảnh khắc cuộc sống nhưng bắt buộc con người ở vào một tình thế phải bộc lộ ra cái phần tâm can nhất, cái phần ẩn náu sâu kín nhất, thậm chí có khi là khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người, một đời nhân loại” (Trang giấy trước đèn, NXB KHXH, 1994, tr.258).
Vậy, tình huống của đa số truyện ngắn O. Henry là gì? Đó là tình huống hành động. Tình huống hành động trong truyện ngắn của O. Henry thể hiện lối tư duy thực dụng của phong cách người Mỹ. Khác với cách tư duy của phương Đông, tác phẩm thường ngầm phải rút ra ý nghĩa triết lý. Nó cũng ít có lối khám phá sâu sắc tâm trạng nhân vật như văn học châu Âu, văn học Nga – Xô Viết. Tuy nhiên, nếu ngẫm nghĩ kỹ, mỗi truyện ngắn của O. Henry vẫn thấm đượm dư vị triết lý, nhân văn sâu sắc. Chẳng hạn truyện ngắn Món quà của các nhà hiền triết (The gift of the Magi) là cách ứng xử đầy tình nghĩa, thể hiện sự quan tâm, hy sinh vì nhau trong tình huống ngặt nghèo vào dịp Giáng sinh: anh chồng đã bán chiếc mặt đồng hồ không có dây đeo quý giá để mua chiếc kẹp tóc tặng vợ, và người vợ đã bán mái tóc dài óng ả của mình để mua chiếc dây đeo đồng hồ tặng chồng… Hay truyện ngắn Hai mươi năm sau (After twenty year) là tình huống ta dễ gặp trong cuộc sống, đó cũng là cách ứng xử hợp lý, hợp tình của hai bạn cũ sau 20 năm gặp lại, giờ một người trong số họ là cảnh sát, còn người kia là tội phạm. Truyện Một cuộc đổi đời (A retrieved reformation) cũng là một truyện với mô típ như thế. Nhân vật chính của truyện là Jimmy Valantine. Anh ta là một kẻ trộm tài ba, người có thể mở được bất kỳ ổ khóa nào, cho dù là ổ khóa khó nhất. Sau vài phi vụ sau khi ra tù, Jimmy đến thị trấn Elmore, bang Arkansas. Tại đây, anh đã phải lòng với một cô gái là con của một ông chủ ngân hàng. Jimmy đổi tên thành Ralph D. Spencer, mở một hiệu đóng và bán giày. Anh quyết định sẽ lập nghiệp tại đây để có thể lấy được con gái của ông chủ ngân hàng về làm vợ. Trong lúc này, thanh tra Ben Price đã đánh hơi được dấu vết của anh, và quyết định đến Elmore để bắt anh về nhà tù một lần nữa. Trong buổi khoe về chiếc tủ sắt mới toanh có thể ngăn cản được mọi kẻ trộm của ông chủ ngân hàng, một sự cố đã xảy ra. Một cô bé nhỏ đã bị nhốt trong chiếc tủ, và chiếc tủ sắt không tài nào mở ra được. Thanh tra Ben đã đến trước cửa ngân hàng, đang lựa chọn thời cơ để bắt bằng được tên trộm khét tiếng. Mọi suy nghĩ lóe qua đầu Jimmy, và anh quyết định để lộ thân phận của mình. Anh đã cứu cô bé nhỏ khỏi chiếc tủ sắt, sau đó đi về phía vị thanh tra. Anh chấp nhận bị bắt. Nhưng thanh tra Ben lại nhìn anh một cách kỳ lạ và nói: “Ông đã nhầm rồi…”. Và rồi, vị thanh tra quay đi, “bước dọc theo hè phố, nơi có một chiếc xe ngựa đang chờ sẵn”. Đọc truyện này tôi chợt nhớ đến cách ứng xử theo phương châm “dùng tình thương để cảm hóa con người” của người tù khổ sai Jean Valjean với mật thám Javert trong tiểu thuyết Những người khốn khổ (tiếng Pháp: Les Misérables) của đại văn hào Pháp Victor Hugo.
Trần Ngọc Tuấn
Bình luận (0)