Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Đánh giá hạnh kiểm học sinh không thể là phép tính cộng, trừ đơn thuần

Tạp Chí Giáo Dục

Kim tra, đánh giá là mt bưc quan trng trong quá trình giáo dc và ging dy. Quy đnh đánh giá kết qu hc tp và rèn luyn ca hc sinh đưc B GD-ĐT nêu c th trong Thông tư 22 v đánh giá hc sinh THCS và hc sinh THPT. Thế nhưng, nhiu trưng hc đã t đt ra b khung quy đnh đim tr cho các li vi phm ca hc sinh và quy đi thành kết qu đánh giá rèn luyn.

(Trích dẫn Danh mục điểm trừ các hành vi vi phạm, để làm căn cứ xếp loại hạnh kiểm học sinh của một trường THPT trên địa bàn TP.HCM)

Việc quy định sẵn một bảng điểm trừ cho từng lỗi vi phạm rồi cộng dồn để đánh giá hạnh kiểm học sinh có thể mang lại sự “tiện lợi” trong quản lý, nhưng lại thiếu đi bản chất sư phạm của giáo dục. Điều này dễ khiến giáo viên trở thành người phán xử hơn là nhà giáo dục. Bên cạnh đó, quy định điểm trừ mỗi trường mỗi khác, nơi thoáng nơi khắt khe. Ngay cả trong cùng trường, việc ghi nhận lỗi của học sinh không thể khách quan, tùy thuộc vào thầy cô phụ trách mỗi khối lớp, cũng như mức điểm trừ ở các lỗi không thể tương ứng, đồng bộ.

Việc quy đổi điểm trừ để làm căn cứ xếp loại hạnh kiểm học sinh được nhiều trường áp dụng và vẫn đang thực hiện. Tuy nhiên, việc quy đổi điểm trừ do nhà trường ban hành có đúng quy định không, có được Sở GD-ĐT phê duyệt hay chưa? Câu hỏi đặt ra liệu rằng có cần ghi nhận lỗi vi phạm của học sinh mới đánh giá được kết quả rèn luyện của học sinh hay không, trong khi tiêu chí các mức đánh giá (Tốt, Khá, Đạt, Chưa đạt) đã được Bộ GD-ĐT quy định cụ thể.

Cơ hi nào cho hc sinh ci thin đim rèn luyn?

Một học sinh vì quên chuẩn bị bài vở, đi học muộn vài lần do hoàn cảnh gia đình, hay phản ứng bộc phát do áp lực tâm lý… nếu cứ căn cứ theo khung điểm mà bỏ qua hoàn cảnh, động cơ của hành vi thì rõ ràng cách trừ điểm này bộc lộ nhiều bất cập, thiếu sự thấu cảm, mang tính tự phát của từng trường. Giáo dục không thể là cái máy chấm lỗi sai để trừ điểm, đòi buộc người chơi “thoát bẫy” để giữ “mạng” như trong các game trò chơi. Đánh giá học sinh cần nhìn cả quá trình và sự tiến bộ, chứ không chỉ cộng dồn lỗi vi phạm như cách làm nói trên. Giáo dục cần cho phép học sinh mắc lỗi và sửa lỗi, giúp học sinh nhận ra hành vi chưa đúng để khắc phục một cách tự giác, từ đó cải thiện và tiến bộ trong học tập. Thay vì đợi học sinh mắc lỗi mới răn đe thì nên nhắc nhở, cảnh báo sớm, điều chỉnh kịp thời hoặc động viên, khích lệ với những cố gắng của học sinh, chia sẻ cảm xúc và kiên nhẫn dìu dắt học sinh bằng tấm lòng khoan dung để các em cảm nhận được sự tin tưởng, được tôn trọng và được yêu thương.

Trong bảng quy đổi điểm trừ lỗi vi phạm, không có quy định điểm cộng (hoặc chỉ cộng điểm rất ít với những điều kiện kèm theo) để học sinh có cơ hội sửa sai, để bù đắp “khoản nợ” điểm trừ trước đó. Đánh giá rèn luyện học sinh cần tìm ra mặt tốt để khen và khích lệ chứ không nên dùng cặp mắt săm soi vào lỗi vi phạm. Tôi cho rằng việc quy đổi điểm trừ như thế chỉ mang tính xử phạt, răn đe nhưng chưa đúng tinh thần giáo dục nhân văn, chưa đúng quy định của ngành giáo dục về cách đánh giá học sinh.

“Vết hn” ghi vào hc b đi sut quãng đi hc sinh

Bảng điểm ghi nhận lỗi vi phạm của học sinh chỉ nên là tham chiếu cho giáo viên chủ nhiệm tham khảo, trên cơ sở đó nhận xét, đánh giá kết quả rèn luyện của học sinh. Bởi lẽ cách trừ điểm cho từng lỗi vi phạm do nhà trường đặt ra mang tính chủ quan duy ý chí, có nhiều bất cập và hạn chế. Cụ thể, trong bảng điểm trừ lỗi vi phạm nêu trên có quy định điểm trừ “lũy tiến” với lỗi đi học trễ từ lần thứ 3 trở lên. Nguyên tắc giáo dục nào cho phép đặt ra quy định vô lý như vậy! Nhưng đó lại là một thực trạng đã tồn tại nhiều năm ở một số trường. Trong năm học 2024-2025 đã có trường hợp học sinh bị đánh giá kết quả rèn luyện “chưa đạt” chỉ vì một số lần đi học trễ, mặc dù học lực và thái độ học tập tốt. Điều này khiến cho học sinh cảm thấy bức xúc, không hài lòng với cách đánh giá như trên, bị tổn thương tâm lý và mất niềm tin vào sự công bằng, chịu bất lợi trong học bạ, xét tuyển, thậm chí ảnh hưởng đến cơ hội nghề nghiệp tương lai nhưng cũng đành “cắn răng”, không dám lên tiếng vì sợ bị “đì”. Khi đặt bút phê vào học bạ một cách thiếu tình người sẽ tạo một vết hằn, vết xước đi suốt quãng đời học sinh. Đây không chỉ là trách nhiệm của nhà trường mà còn là lương tâm của người làm giáo dục! Tôi đề xuất với những trường hợp học sinh “chưa đạt” thì nhà trường cần giải trình và trả lời cho cha mẹ học sinh bằng văn bản về việc đánh giá kết quả rèn luyện một cách rõ ràng. Điều này để bảo đảm nhà trường, thầy cô thận trọng trước quyết định đánh giá nhân cách, phẩm chất của một con người.

Mt li nh, mt vết mc “bt biến” và cánh ca tương lai b khép li?

Tôi cho rằng việc ghi nhận lỗi vi phạm của học sinh là cần thiết nhưng không cần phải liệt kê quá chi li từng lỗi vi phạm như các trường đang làm hiện nay. Giáo viên cần đánh giá mức độ nặng, nhẹ của từng lỗi vi phạm của học sinh. Theo tôi, lỗi vi phạm của học sinh có thể chia thành 2 cấp độ: Một là các lỗi vi phạm tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân học sinh; hai là các lỗi vi phạm tác động, ảnh hưởng đến người khác, đến danh dự, uy tín của cá nhân hay tập thể. Với các lỗi ở cấp độ 1 thì giáo viên trao đổi, giúp học sinh điều chỉnh. Với các lỗi ở cấp độ 2 thì tùy theo mức độ mà có các biện pháp nhắc nhở, xử lý hoặc kỷ luật. Dẫu vậy đó cũng chỉ nên là tham chiếu để giáo viên chủ nhiệm có những biện pháp giáo dục, trao đổi, hướng dẫn học sinh tự nhận xét, tự điều chỉnh và chuyển biến tích cực. Không nên dựa hoàn toàn vào số lỗi vi phạm để “đóng khung”, xem đó là vết mực “bất biến”, làm mất đi động lực cố gắng của học sinh. Hãy để mỗi lỗi vi phạm trở thành một cơ hội giáo dục, chứ không phải một bản án khép lại cánh cửa tương lai của học sinh.

Trong hành trình trưởng thành của mỗi con người, lỗi lầm là điều không thể tránh khỏi. Đặc biệt với lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành nhân cách và khám phá bản thân thì những sai sót, va vấp là điều tất yếu. Điều quan trọng không phải là ai đó đã từng mắc lỗi gì, mà là sau lỗi lầm đó họ đã học được gì, thay đổi thế nào và nỗ lực ra sao để tiến bộ. Chính vì vậy, hãy nhìn lỗi lầm là động lực để cố gắng, chứ không nên biến lỗi lầm thành “bản án treo” khiến học sinh mang cảm giác tội lỗi hay bị loại trừ. Giáo dục không nên là chiếc cân để đong đếm sự hoàn hảo nhưng là hành trình gieo động lực và hy vọng, là ngọn đèn soi rọi vào khuyết điểm để học sinh biết và sửa sai, cũng như phát sáng những cố gắng thầm lặng của các em, dù quá trình này có thể diễn ra nhanh hoặc lâu hơn tùy vào cách đón nhận của từng đối tượng học sinh.

Lâm Vũ Công Chính

Bình luận (0)