Trong tất cả các môn học, bộ môn văn có một đặc thù rất riêng. Nó vừa có tính nghệ thuật, vừa có tính khoa học; vừa khơi gợi cảm thức thẩm mỹ với người học lại vừa có tính ứng dụng thực tiễn.
Học sinh Trường THPT Tây Thạnh trong một tiết học môn văn được sân khấu hóa
Vì vậy việc dạy và học văn tưởng dễ mà khó, và vấn đề hiệu quả của việc dạy học văn luôn là một câu chuyện dài không có hồi kết: Làm sao để dung hòa được mối quan hệ từ phía người dạy và người học, giữa mục đích giáo dục thẩm mỹ và kỹ năng ứng dụng xã hội của bộ môn này là những câu hỏi của muôn thuở.
Văn phải sáng tạo
Mọi người thầy đều là một nghệ sĩ mà bục giảng là sân khấu. Điều này đúng nhất cho giáo viên dạy văn. Người dạy văn trước nhất phải có “máu” nghệ sĩ. Muốn có tiết học văn hay đòi hỏi người thầy phải “diễn” cho thật sâu, thật nhập tâm và phải có ngẫu hứng sáng tạo. Thiên về cảm xúc, người dạy sẽ khơi gợi được sự rung động nhân ái tâm hồn của học sinh. Nhưng bài giảng quá “ướt” nhiều khi sẽ mất chiều sâu lý trí, trí tuệ. Mà thiên về lý trí và tính ứng dụng của nó, bài học sẽ trở nên máy móc, khô khan. Cho nên phải kết hợp cả hai yếu tố trên mới mong tạo được hứng thú cho học sinh và đạt được mục đích của môn học.
Người dạy văn quá chú trọng sách vở và giáo án có thể sẽ mang lại điểm số cao cho học sinh qua các bài thi. Song, khi ra đời, nhiều khi các em dễ trở thành những “con mọt sách”, những “ông cụ non triết lý”. Liên hệ xã hội vào bài học, người thầy đã kéo cuộc sống gần hơn với trang sách của học sinh. Có thể trước mắt điểm số học sinh không cao, nhưng tương lai các em dễ thành người “lịch lãm”, chín chắn! Biết dung hòa giữa sách vở lý thuyết và thực tế cuộc đời, những tiết học văn sẽ không còn nhàm chán, đơn điệu.
Những bài kiểm tra điểm cao thường trung thành với kiến thức được “mớm” từ người thầy và thường như thế dễ khiến học sinh học “vẹt”. Người thầy phải chấp nhận những sáng tạo, chấp nhận phá cách, thậm chí cả những ý kiến có tính tranh luận của học sinh. Bản chất của môn văn là ở chỗ tranh luận, sáng tạo ấy.
Văn phải thực tiễn
Bốn kỹ năng “đọc, viết, nghe, nói” đều cần thiết trong việc dạy và học văn. Bấy lâu nay học sinh chủ yếu dừng lại ở việc “đọc” các văn bản giáo khoa (nghệ thuật, nghị luận, thông tin…) và “viết” các bài kiểm tra đáp ứng mục đích thi cử (phân tích thơ, truyện, nghị luận xã hội…), mà ít được cọ xát với các văn bản khó đọc hơn, đa dạng hơn. Học sinh cũng ít được làm quen tạo lập các văn bản có tính ứng dụng xã hội hơn như các văn bản giao tiếp hành chính, văn bản thuyết minh, văn bản sáng tác… Mặt khác, các kỹ năng về “nghe” và “nói” của họ hầu như ít được quan tâm, nên hiện nay các em rất yếu về hai kỹ năng này. Hoặc là, họ chưa có năng lực biết lắng nghe để thấu hiểu mà ứng xử cho phù hợp. Hoặc là yếu về kỹ năng nói, kỹ năng thuyết trình và tranh luận. Cho nên, trong lớp học ở trường thì thụ động, rụt rè. Ra ngoài xã hội thì khép nép thu mình vì sợ nói, sợ sai. Việc môn văn bị cho thiếu tính thực tiễn là vì thế.
Rõ ràng còn nhiều điều nữa để bàn về việc dạy và học văn hiện nay. Làm sao để việc học văn có sáng tạo? Làm sao để kéo việc học văn về với ứng dụng thực tế? Làm sao để khi học sinh ra trường viết đúng một lá đơn xin việc, để sinh viên biết viết một bài nghiên cứu đúng quy cách, để bác sĩ kê đơn thuốc không sai chính tả, để đại biểu của một tổ chức xã hội nói năng lưu loát trước tập thể đám đông, để có nhiều hơn những sáng tác hay của những cây bút trẻ?… Đều là trách nhiệm của việc dạy học văn ở nhà trường phổ thông.
Một đồng nghiệp dạy hóa của tôi đưa ra nhận xét phi lý mà thấy có phần hữu lý: Thực ra chính những môn học tự nhiên mới ít sáng tạo, vì khi giải bài tập, học sinh làm theo những cách thức (cách giải) cho sẵn. Còn viết văn là một quá trình sáng tạo hoàn toàn. Sáng tạo về dùng từ, đặt câu, xây dựng bố cục lập luận, tạo sắc thái giọng điệu… Tất cả đều hướng đến mục đích: thuyết phục người nghe, người đọc và giao tiếp hiệu quả.
Trần Ngọc Tuấn
(Trường THPT Tây Thạnh, TP.HCM)
Bình luận (0)