|
Một tiết dạy ngoại ngữ của thầy Nguyễn Diệu (Trường CĐ Kinh tế Kỹ thuật Phú Lâm) |
Ngày 7-12, Sở GD-ĐT TP.HCM tổ chức hội thảo “Giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học tiếng Anh trong các trường chuyên nghiệp TP theo Đề án 2020”. Tại đây các cán bộ quản lý, thầy cô giáo đang trực tiếp giảng dạy môn tiếng Anh ở các trường đều thừa nhận rằng năng lực của thầy cô giáo còn hạn chế, trình độ đầu vào của học sinh sinh viên (HSSV) thì cực thấp…
Đầu vào thấp, giảng viên dưới chuẩn
Có thể nói hiện nay, môn tiếng Anh trong các trường chuyên nghiệp dù là một trong các môn thuộc nhóm chung nhưng vẫn chưa được HSSV chú trọng nhiều.
Trường CĐ Kinh tế Kỹ thuật Phú Lâm có hơn 6.000 HSSV thì trình độ các bài kiểm tra xếp lớp của học viên không chuyên đạt tới 60% sơ cấp, 35% sơ trung cấp và trình độ trung cấp chỉ đạt 1%. Nguyên nhân do trình độ ngay đầu vào thấp. Hơn 90% HS TCCN đạt trình độ vỡ lòng, 50% SV CĐ vỡ lòng, hơn 40% tiền sơ cấp, khoảng 5% sơ trung cấp. Đây có thể xem là vấn đề đáng báo động bởi kéo theo đó việc đáp ứng chuẩn đầu ra sẽ rất gian nan.
Ông Trần Xuân Ngọc Bách, Trưởng khoa Ngoại ngữ nhà trường cho biết: “HSSV còn yếu về năng lực sử dụng, không có được kỹ năng, thói quen nền tảng trong việc học, kể cả kỹ năng suy luận lắp ghép theo mẫu, thậm chí kỹ năng tra từ điển. Đặc biệt HSSV còn mặc cảm, thiếu tự tin vì sợ bị chê trách nếu nói sai, viết sai… thế nên có học nhiều cũng không khá được”. Cô Phạm Hoàng Minh Thảo (giảng viên Trường CĐ Công nghệ Thủ Đức) cũng đồng tình: “Nhiều HS không cảm thấy hứng thú, vẫn học lệch, học đối phó, chủ quan, thực hiện theo yêu cầu giảng viên là chính dẫn đến mất căn bản, học kém”.
Ngoài các nguyên nhân trên, thì chương trình dạy và học, trình độ đội ngũ giảng viên cũng là điều đáng lo ngại. Cụ thể, ở những vùng nông thôn, vùng khó khăn, giảng viên chủ yếu tập trung vào ngữ pháp, đọc, dịch khiến họ mất dần khả năng giao tiếp. Trong hơn 62.000 giảng viên thì trình độ chưa đạt chuẩn còn nhiều, một số sử dụng ngôn ngữ chưa thành thạo, ít có cơ hội được bồi dưỡng nâng cao cũng như ý thức tự học, tự nâng cao còn thấp. Chương trình thì chưa thống nhất chuẩn cấp độ, chưa theo kịp chuẩn quốc tế, thiếu tính liên thông giữa các cấp học, bậc học…
Đại diện Trường TC Ánh Sáng cho rằng hiện nay trừ các trường có yếu tố nước ngoài có đội ngũ chuyên gia nước ngoài đứng lớp, các trường còn lại hầu như không có giảng viên bản xứ để dạy, nếu có cũng là “cưỡi ngựa xem hoa”. Bên cạnh đó, theo báo cáo từ Sở GD-ĐT, tỷ lệ HS/giảng viên: 228 em như hiện nay là quá đông; số tiết giảng dạy thì chưa nhiều, sách giáo khoa chưa đáp ứng yêu cầu học của từng đối tượng, cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy còn “đơn sơ”… cũng là nguyên nhân làm chất lượng dạy và học chưa cao.
Ông Lâm Văn Quản, Trưởng phòng Giáo dục chuyên nghiệp và ĐH (Sở GD-ĐT) thẳng thắn nhìn nhận: “Chương trình dạy và học mới ở các trường chuyên nghiệp mới chỉ đáp ứng kiến thức ngữ pháp cơ bản, đọc tài liệu chuyên môn đơn giản, đáp ứng yêu cầu thi tuyển, nắm kiến thức cơ bản giao tiếp hàng ngày…”.
Giảm sĩ số, thay đổi cách dạy…
Theo TS. Nguyễn Ngọc Hùng, Trưởng bộ phận Đề án ngoại ngữ quốc gia 2020 (Bộ GD-ĐT),nhiệm vụ trước mắt của trường chuyên nghiệp là cần thay đổi lối giảng dạy theo hướng giao tiếp; giảm sĩ số HS/lớp; đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá; tạo điều kiện cho giáo viên tham gia bồi dưỡng nâng cao năng lực; ngành giáo dục tạo cơ chế để các trường hợp tác liên kết giảng dạy đặc biệt phải tăng cường ứng dụng CNTT.
Còn theo đại diện của Trường TC Ánh Sáng thì, cần khảo sát trình độ của HS ngay từ đầu khóa học để tiện phân loại và dạy đúng đối tượng. Nguồn giáo trình cần đồng nhất, phù hợp đối tượng học; thiết bị dụng cụ phục vụ giảng dạy như máy chiếu, giáo cụ nên trang bị đầy đủ hơn; tổ chức lớp học ở sĩ số 30-34 HS/lớp, phấn đấu còn 20-25 HS/lớp theo mô hình mới. Đặc biệt tạo điều kiện cho giảng viên tham gia các buổi tập huấn, các khóa học ngắn hạn nhằm bồi dưỡng, nâng cao năng lực. Cô Phạm Hoàng Minh Thảo (Trường CĐ Công nghệ Thủ Đức) cho rằng: “Giảng viên phải thường xuyên cập nhật giáo trình mới, đổi mới phương pháp bài giảng một cách sáng tạo hơn sau mỗi tiết lên lớp. Việc này tạo sự hứng thú cho SV. Hơn nữa nên tích cực rèn luyện nhớ được bài tại lớp cho SV bằng cách hình thành cặp nhóm. Ở đây, SV có thể trao đổi ý kiến, giúp nhau khi viết bài, soạn một giáo trình bằng giáo án điện tử”.
Ở góc độ khác, ThS. Đỗ Thị Dung (Trường CĐ Công nghệ Thủ Đức) cho rằng: Tự học giúp HSSV hình thành những năng lực cơ bản, phát triển các kỹ năng học tập độc lập. Khi có thái độ tự học thì việc sử dụng thư viện, phòng tự học, tài liệu đạt hiệu quả hơn. Theo đó có thể tự học, tự rèn luyện, bồi dưỡng, nâng cao trình độ suốt đời. Bên cạnh đó, yếu tố không thể thiếu là bản thân giảng viên luôn tìm hiểu các phương pháp ứng dụng CNTT. Các trang website như: Hotpotato, Youlisten; mạng xã hội học tập Edomodo… mà trường thường xuyên vận dụng đã thực hiện tốt chức năng phương tiện dạy học, thúc đẩy sự tương tác giữa giảng viên-HSSV, HSSV với nhau.
Đây cũng chính là vấn đề mà ông Nguyễn Ngọc Hùng quan tâm: Chúng ta có thuận lợi đó là sự phát triển của CNTT, nhiều nguồn học liệu mở WikiCALL, website của Hội đồng Anh, cổng thông tin Đại sứ quán Mỹ, phần mềm thương mại; nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư các phần mềm… song tận dụng chưa hiệu quả. “Các trường nên tận dụng lợi thế này, đẩy mạnh các kết nối internet. Theo đó bản thân giảng viên cần cố gắng bồi dưỡng, nâng cao năng lực tiếng Anh cũng như kiến thức về ứng dụng CNTT vào giảng dạy”, ông Hùng nhấn mạnh.n
Bài, ảnh: Ngọc Trinh


Bình luận (0)