Tạp Chí Giáo Dục TP.Hồ Chí Minh
Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Để ra đề thi ngữ văn và luyện tập cho học sinh tốt hơn

Tạp Chí Giáo Dục

Để ra đề thi ngữ văn và luyện tập cho học sinh tốt hơn - Audio
00:00 / 00:00
An audio error has occurred, player will skip forward in 2 seconds.
  1. 1 Để ra đề thi ngữ văn và luyện tập cho học sinh tốt hơn Audio

T ngày 20 đến ngày 23-2, ti Trưng ĐH Sư phm Thái Nguyên, Cc Qun lý cht lưng (B GD-ĐT) đã tiến hành tp hun cho giáo viên ng văn lp 12 ca 26 tnh phía Bc. Tiếp theo, B GD-ĐT s t chc tp hun đt 2 ti Cn Thơ cho giáo viên ng văn các tnh Nam b và đt 3 ti Tha Thiên – Huế cho giáo viên ng văn các tnh min Trung.

Theo tác giả, giáo viên còn lúng túng, sai sót trong việc ra đề luyện tập cho học sinh cách làm bài thi mới (ảnh minh họa). Ảnh: Y.H 

Đây là một đợt tập huấn có ý nghĩa và cần thiết để tiếp tục chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp THPT vào tháng 6-2025 – kỳ thi đầu tiên theo Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Mô hình, phạm vi, cấu trúc, định dạng của đề thi đã rõ; giáo viên, học sinh đã được làm quen và nắm được vì Bộ GD-ĐT đã công bố từ cuối năm 2023, đề thi tham khảo của Bộ GD-ĐT cũng đã công bố từ tháng 10-2024… Tuy nhiên, trong thực tế giáo viên vẫn còn rất lúng túng, sai sót trong việc ra đề luyện tập cho học sinh cách làm bài thi mới. Làm việc với lớp tập huấn, tôi đã nêu lên một số tồn tại của việc ra đề thi ngữ văn theo yêu cầu đánh giá năng lực.

Thứ nhất, về văn bản và câu hỏi đọc hiểu: Một là chất lượng văn bản đọc hiểu chưa cao: nhiều đề thi chọn văn bản cho phần đọc hiểu và viết chưa hay, chưa tiêu biểu. Hiện tượng nhiều giáo viên biên soạn đề thi chỉ tập trung vào các ngữ liệu của văn học đương đại, chưa chú trọng đúng mức văn bản ngữ liệu các giai đoạn, tác giả và tác phẩm “kinh điển”, tiêu biểu cho thành tựu văn học dân tộc; nhiều tác giả, tác phẩm mới xuất hiện 5-10 năm lại đây, chưa qua thử thách của thời gian. Một số đề ngữ văn chưa chú ý đúng mức các nội dung nhạy cảm, tính giáo dục và tính thẩm mỹ… Hai là kỹ thuật trình bày văn bản còn hạn chế: một số đề thi tự thêm vào văn bản gốc như đánh số đoạn/câu/khổ hoặc dùng chữ in đậm trong văn bản nhưng không có cước chú (một đoạn chú thích đặt ở cuối trang trong một quyển sách hoặc văn bản) để học sinh biết đó là dụng ý của người ra đề; việc chú nguồn dẫn còn sơ sài, không đúng quy cách, thiếu độ tin cậy… Phần tóm tắt bối cảnh văn bản (đoạn trích văn xuôi) còn dài dòng, hoặc tóm tắt không đủ thông tin, không giúp học sinh hiểu được đoạn trích liền mạch, không bảo đảm tính chỉnh thể của tác phẩm. Không chú ý trình bày tóm tắt để phân biệt giữa tóm tắt và văn bản chính bằng co chữ, in nghiêng và đặt trong ngoặc kép những từ ngữ của nguyên bản; không xác định đúng từ khó để chú thích, chú thích cả những từ phổ thông. Nhiều đề thi giới thiệu quá nhiều thông tin tiểu sử tác giả không có ích gì trong việc giúp học sinh hiểu văn bản. Ba là câu hỏi đọc hiểu đã tuân thủ quy định, tuy nhiên nhiều câu hỏi chưa hay, một số câu quá dễ, nhàm chán và thiếu liên kết với văn bản đọc. Câu hỏi tiếng Việt chưa chú ý tới quy định: trước hết các đơn vị kiến thức tiếng Việt học ở lớp 12, sau đó mới đến lớp 11, lớp 10 và các lớp ở THCS. Nhiều đề thi câu hỏi đọc hiểu chưa bám sát đặc trưng thể loại của văn bản đọc, chỉ tập trung hỏi các yếu tố hình thức thể loại, ít chú ý hỏi nội dung… Bốn là nhiều đề ngữ văn diễn đạt thiếu chính xác các yêu cầu khi sử dụng các thuật ngữ khái niệm. Ví dụ cảm xúc và mạch cảm xúc; tâm lý và diễn biến tâm lý… trong thơ, truyện dễ lẫn với nội dung, sự việc trong văn bản. Năm là đề ngữ văn chưa nhất quán trong diễn đạt khi yêu cầu đọc văn bản và trả lời các câu hỏi bên dưới; nhưng năm câu hỏi bên dưới lại có cả câu lệnh trong khi lẽ ra tất cả phải bằng câu hỏi.

Học sinh Trường THPT Ten Lơ Man (Q.1, TP.HCM) trong giờ học môn ngữ văn (ảnh minh họa). Ảnh: Y.H

Thứ hai, về câu hỏi phần viết. Nhìn chung giáo viên đã nắm rõ yêu cầu viết với hai dạng chính là nghị luận xã hội + nghị luận văn học và hai cấp độ đoạn và bài. Một số vấn đề cần tiếp tục chú ý: Một là yêu cầu viết đoạn, bài nghị luận xã hội cần chú ý cả hai dạng: có liên quan (link) và không link với văn bản đọc hiểu. Cần hướng dẫn để học sinh phân biệt đoạn và bài: đoạn chỉ tập trung vào phát triển một luận điểm, có lý lẽ và bằng chứng, theo một kiểu đoạn văn (diễn dịch, quy nạp, tổng hợp…); trình bày bằng một đoạn không xuống dòng. Bài có nhiều luận điểm, trình bày theo ba phần (mở bài, thân bài, kết bài). Hai là đề nghị luận xã hội thường nêu câu dẫn trước câu lệnh. Nhưng câu dẫn phải hay, gợi được cảm hứng, cảm xúc cho học sinh; ưu tiên những câu danh ngôn, có nguồn rõ ràng; thông điệp chính của câu dẫn cần thống nhất với câu lệnh, liên quan chặt chẽ với câu lệnh… Câu lệnh cần rõ ràng, tránh sử dụng nhiều từ ngữ đồng/gần nghĩa trong câu lệnh… Ví dụ, nêu và phân tích vai trò, tác dụng, ý nghĩa của các yếu tố tượng trưng trong đoạn thơ sau: … Với lệnh này, học sinh sẽ rất khó khăn trong việc xác định ba khái niệm: vai trò, tác dụng, ý nghĩa… Ba là nhiều đề nghị luận xã hội đã chú ý vào các vấn đề xã hội liên quan đến tuổi trẻ, nhưng ít chú ý tới bối cảnh chính trị – xã hội của đất nước để lựa chọn được những vấn đề nóng, thiết thực, hấp dẫn… Bốn là về yêu cầu viết nghị luận văn học có thể link và không link với văn bản đọc hiểu; yêu cầu viết một trong ba kiểu bài (phân tích tác phẩm, so sánh hai tác phẩm và làm rõ đặc trưng thể loại của một văn bản) nhưng giáo viên thường chú ý đề về thơ nhiều hơn; đề yêu cầu phân tích, cảm nhận tác phẩm nhiều hơn đề yêu cầu so sánh hai tác phẩm. Nhiều đề yêu cầu quá cao chưa phù hợp với thời lượng làm bài và trình độ học sinh…

PGS.TS Đ Ngc Thng

Bình luận (0)