- 1 Đừng để con trẻ lớn lên cùng vết sẹo thủy đậu
Nhiều bạn sinh viên – học sinh lớn lên với những vết sẹo nhỏ trên mặt, tưởng chừng vô hại, nhưng lại là ký ức dài hạn của một căn bệnh tưởng chừng “nhẹ” – thủy đậu.

Căn bệnh từng được xem là “đến rồi đi như một cơn sốt nhẹ” giờ đây không còn đơn giản như thế, nhất là với trẻ nhỏ, người lớn chưa có miễn dịch hoặc người có bệnh nền. Mỗi mùa chuyển giao sang hè, số ca mắc thủy đậu lại tăng vọt, nhiều trường hợp diễn tiến nặng, biến chứng nguy hiểm đến tính mạng. Khi vắc-xin đã sẵn có và y tế hiện đại đủ sức kiểm soát, câu hỏi đặt ra là vì sao chúng ta vẫn để con em mình mắc bệnh – và để lại những vết sẹo kéo dài đến cả tuổi trưởng thành?
Không chỉ là “cảm cúm có nổi ban”
Thủy đậu – hay còn gọi là trái rạ trong dân gian – là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do virus Varicella Zoster gây ra. Virus này thuộc nhóm Herpesvirus (cụ thể là Herpesvirus nhóm 3), có khả năng lây lan mạnh mẽ qua đường hô hấp. Chỉ cần người bệnh nói, ho hay hắt hơi, những giọt bắn chứa virus có thể phát tán trong không khí, tồn tại dưới dạng bụi siêu nhỏ. Người khỏe mạnh hít phải lượng bụi chứa virus đó là đã có thể nhiễm bệnh, khiến thủy đậu dễ dàng bùng phát thành dịch.
Theo ThS.BS Ngô Thị Mai Phương, Phòng khám Nhi và Tiêm ngừa Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, việc nhận biết sớm thủy đậu và phân biệt với các bệnh lý khác có triệu chứng tương tự là bước đầu quan trọng trong điều trị và kiểm soát lây lan.
“Sau khi tiếp xúc với nguồn lây, thời gian ủ bệnh trung bình khoảng hai tuần. Giai đoạn đầu, người bệnh thường có các biểu hiện như sốt, mệt mỏi, đau họng, biếng ăn. Khoảng 24 giờ sau, da bắt đầu nổi ban, sẩn đỏ, sau đó chuyển thành mụn nước trên nền hồng ban. Mụn nước có thể vỡ, đóng mài và bong vảy sau vài ngày”, bác sĩ Phương cho biết.
Đặc điểm đáng lưu ý là các sang thương da ở bệnh nhân thủy đậu thường mọc mới liên tục, dẫn đến việc trên cùng một vùng da có thể xuất hiện các tổn thương ở nhiều giai đoạn khác nhau. Đây là yếu tố giúp bác sĩ dễ nhận diện bệnh qua thăm khám lâm sàng.
Nhiều người vẫn mang suy nghĩ rằng thủy đậu là bệnh thông thường, không nguy hiểm, có thể tự khỏi mà không cần đến bệnh viện. Nhưng thực tế không hoàn toàn như vậy. “Đối với người có sức đề kháng bình thường, bệnh có thể tự hồi phục trong vòng một đến vài tuần. Tuy nhiên, ở những đối tượng đặc biệt như trẻ sơ sinh, trẻ dưới 1 tuổi, thanh thiếu niên trên 12 tuổi hoặc người lớn, nguy cơ xảy ra biến chứng rất cao”, bác sĩ Phương cảnh báo.
Một trong những biến chứng phổ biến là bội nhiễm da – khi các mụn nước bị trầy xước, vi khuẩn tấn công khiến vết thương mưng mủ và dễ để lại sẹo. Ở mức độ nghiêm trọng hơn, thủy đậu có thể dẫn đến viêm phổi với tỷ lệ tử vong dao động từ 10% đến 30% trong các trường hợp nặng. Nếu viêm phổi gây suy hô hấp, cần hỗ trợ thở máy, tỷ lệ tử vong có thể lên tới 50%.
Ngoài ra, viêm não do thủy đậu là biến chứng cực kỳ nguy hiểm, với tỷ lệ tử vong khoảng 10% và để lại di chứng thần kinh (như chậm phát triển trí tuệ, rối loạn vận động) ở khoảng 15% bệnh nhân, dù đã được điều trị tích cực.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh
Theo bác sĩ Phương, điều quan trọng là không nên tự ý điều trị tại nhà khi chưa có sự thăm khám và chẩn đoán chính xác. “Nhiều trường hợp người dân tự nghĩ rằng mình bị trái rạ rồi tự chăm sóc, không đến gặp bác sĩ. Điều này tiềm ẩn nguy cơ chẩn đoán nhầm với các bệnh khác cũng có biểu hiện nổi ban như sốt phát ban, tay chân miệng, sởi… hoặc không phát hiện kịp thời các biến chứng nguy hiểm”.
Trong trường hợp bác sĩ chỉ định điều trị ngoại trú, việc chăm sóc đúng cách là yếu tố quan trọng giúp bệnh nhân hồi phục và tránh để lại di chứng. Phác đồ điều trị tại nhà chủ yếu là giảm triệu chứng: dùng thuốc hạ sốt khi trẻ sốt, thuốc kháng histamin để giảm ngứa, ăn uống đủ chất và mặc quần áo thoáng mát để tránh ma sát với sang thương da.
“Một lưu ý rất quan trọng là phải cắt ngắn móng tay trẻ. Vì các mụn nước rất ngứa, nếu trẻ gãi sẽ làm rách da, dễ nhiễm trùng và để lại sẹo”, bác sĩ Phương nhấn mạnh.
Khi chăm sóc người bệnh tại nhà, người thân cần đặc biệt chú ý đến các dấu hiệu cảnh báo biến chứng. Theo bác sĩ Phương, nếu thấy người bệnh thở nhanh, khó thở, tím tái, lú lẫn, đau đầu dữ dội, nôn ói nhiều, hôn mê hoặc các tổn thương da bắt đầu mưng mủ – cần đưa bệnh nhân đến bệnh viện ngay lập tức.
“Đừng để con trẻ lớn lên với những vết sẹo thể chất và tinh thần chỉ vì một căn bệnh có thể phòng ngừa. Khi đã có vắc-xin – giải pháp hiệu quả, an toàn, dễ tiếp cận – thì sự lơ là là điều không đáng có”, bác sĩ Ngô Thị Mai Phương, Phòng khám Nhi và Tiêm ngừa Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM kết luận.
![]() |
“Đây là những dấu hiệu của viêm phổi hoặc viêm não – hai biến chứng nguy hiểm nhất của thủy đậu”, bác sĩ nói thêm.
Trong trường hợp người bệnh cần nhập viện, phác đồ điều trị sẽ bao gồm sử dụng thuốc kháng virus (dạng uống hoặc truyền tĩnh mạch, tùy đối tượng), thuốc hạ sốt, thuốc giảm ngứa, thuốc kháng sinh nếu có nhiễm trùng da. Ngoài ra, bệnh nhân vẫn được chăm sóc dinh dưỡng và vệ sinh sang thương da bằng dung dịch sát khuẩn như xanh methylen.
Thủy đậu có thể lây ngay trong thời gian ủ bệnh – khi người nhiễm chưa có triệu chứng – nên việc tránh tiếp xúc với nguồn lây không phải lúc nào cũng khả thi. Do đó, phương pháp phòng bệnh hữu hiệu và an toàn nhất hiện nay là tiêm ngừa vắc-xin thủy đậu.
“Vắc-xin có thể giảm nguy cơ mắc bệnh đến 80-85%, và nếu không may nhiễm bệnh thì vẫn giúp giảm mức độ nghiêm trọng đến 95-99%. Đây là bước phòng vệ cực kỳ quan trọng cho trẻ nhỏ cũng như người lớn chưa từng mắc bệnh”, bác sĩ Phương nhấn mạnh.
Từ khi vắc-xin được đưa vào sử dụng, số ca bệnh nặng và tử vong do thủy đậu đã giảm rõ rệt. Trong khi đó, nhiều phụ huynh vẫn còn tâm lý chủ quan, xem nhẹ việc tiêm phòng vì nghĩ rằng “thủy đậu là bệnh lành”. Nhưng sự lành tính ấy chỉ đúng trong điều kiện chăm sóc y tế đầy đủ và với cơ thể có miễn dịch tốt.
Thủy Phạm
Bình luận (0)